Năng lực chữa lành của lòng bi mẫn

Sự kết luận của tất cả những điều này thì như tôi đã đề cập ở trên. Lòng bi mẫn đối với chúng sinh là phương pháp tối hảo, cách đối trị tuyệt vời nhất để tẩy trừ những chướng ngại của cuộc đời; lễ puja tuyệt hảo để tiệt trừ những chướng ngại cho sự thành công của cả việc thực hành Pháp, sự chứng ngộ lẫn những công việc thế gian, chẳng hạn như những công việc kinh doanh của bạn.

Có lần ở Tây Tạng có một gia đình rất giàu có, cô con gái của họ bị những tinh linh ám nhập. Cô ta hoàn toàn trở nên điên loạn. Gia đình cô đã thỉnh mời nhiều Lạt Ma địa phương là những vị thường cử hành những lễ puja và cầu nguyện cho dân chúng trong vùng đó, nhưng không giúp được gì. Một hôm có một nhà sư bình thường đi khất thực ngang qua đó, vì thế gia đình cô mời nhà sư lên lầu để xem ông có thể giúp được gì cho cô con gái của họ không. Có lẽ nhà sư là một geshe, tôi không biết rõ nhưng dù sao thì ông đã cố gắng cử hành nghi lễ Mật thừa geg-tor – ban torma cho những người ám nhập, giống như khi chúng ta dâng cúng ba torma vào lúc bắt đầu các lễ nhập môn. Nhưng trong khi ông tụng thần chú NAMO SARVA TATHAGATA BEU MEGA… SOHA, nâng torma cúng cho những tinh linh ám nhập thì cô gái bắt chước những hành động của ông và cũng lập lại thần chú đó. Vì thế nhà sư biết rằng việc này không ích lợi. Ông ngưng cử hành nghi lễ và thay vào đó trùm lên đầu chiếc zen (khăn của tu sĩ) và thiền định về lòng bi mẫn đối với nỗi khổ của tinh linh và của cô gái. Khi đó tinh linh nói với nhà sư qua thân cô gái: “Xin để cho tôi đi. Tôi sẽ ra khỏi cô ta”, và cô gái hết bị ám. Cô gái hoàn toàn điên dại bởi sự ám nhập của tinh linh cuối cùng đã được cứu thoát nhờ lòng bi mẫn. Đó là điều duy nhất có thể chữa lành cho cô gái. Đây chỉ là một ví dụ của việc làm thế nào lòng bi mẫn trở thành một trong những phương pháp tối hảo, mạnh mẽ nhất trong việc giải trừ những chướng ngại.

Phương thuốc bi mẫn cũng là liều thuốc tốt nhất để chữa lành bệnh, cách đối trị tốt nhất đối với các bệnh tật. Có nhiều câu chuyện về những người đã khỏi bệnh bằng thực hành bi mẫn của pháp tonglen, là phương pháp chữa bệnh cho bản thân mình bằng cách nhận lấy nỗi khổ của người khác. Có một đệ tử ở Singapore bị bệnh AIDS. Vị guru đầu tiên của anh là Rato Rinpoche, một Lạt Ma rất cao cấp sống ở Dharamsala mà bản thân ngài đã mắc một dạng bệnh Parkinson. Qua người phụ nữ làm công tác phiên dịch tại Thư viện Tây Tạng cho Geshe Sonam Rinchen [Ruth Sonam], Rinpoche đọc thực hành tonglen cho người đệ tử này – nhận vào mình nỗi khổ của chúng sinh và hiến tặng họ hạnh phúc, công đức, thân thể và v.v... của riêng mình – và bảo người phiên dịch gửi bài này cho anh ở Singapore.

Anh ta đã thực hành trong bốn ngày và khi tới bệnh viện để kiểm tra, các bác sĩ đã không tìm thấy dấu vết của bệnh AIDS. Khi nghe nói về điều này tôi nghĩ rằng chắc hẳn anh đã phải thiền định nhiều giờ trong bốn ngày đó, vì thế tôi đã hỏi anh đã thực hành bao nhiêu lâu. Anh nói: “Năm phút mỗi ngày”.

Năm phút một ngày! Có thể xảy ra một chuyện như thế? Trong khi anh ta thiền định, anh cảm thấy một lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi đối với tất cả những người đang đau khổ vì bệnh tật, đặc biệt là bệnh AIDS, và cảm thấy không còn quan tâm gì tới những vấn đề của riêng mình nữa. Anh ta cảm thấy một lòng bi mẫn không thể tin nổi, anh không thể chịu đựng nổi nỗi khổ của bệnh AIDS mà những người khác đang phải trải nghiệm. Trong năm phút đó những giọt nước mắt bi mẫn lăn trên má anh. Vì thế mặc dù mỗi ngày anh chỉ thực hành năm phút, nhưng anh đã thực hành rất, rất mãnh liệt. Lòng bi mẫn mà anh phát triển thì hết sức mạnh mẽ, và lòng bi mẫn mạnh mẽ đó chỉ trong bốn ngày, mỗi ngày năm phút, thực hành Bồ Đề tâm đặc biệt nhận vào mình nỗi khổ của chúng sinh và hiến tặng họ hạnh phúc và công đức của riêng mình và v.v... đã đủ để chiến thắng bệnh AIDS của anh.

Lòng bi mẫn chữa lành bệnh tật ra sao? Nó hoạt động thế nào? Những bệnh tật xuất phát từ nghiệp tiêu cực – những hành vi bất thiện, những hành động được thực hiện với sự tham luyến, với một tâm thức bất tịnh – và lòng bi mẫn, Bồ Đề tâm, tâm vị tha thương yêu người khác và tìm kiếm sự Giác ngộ, là phương tiện tịnh hóa hữu hiệu nhất đối với nghiệp tiêu cực, chẳng hạn như những nghiệp gây nên các bệnh tật.

Như Shantideva đã nói trong chương giảng về những lợi ích của Bồ Đề tâm trong quyển Bodhicharyavatara (Hướng dẫn vào Bồ Tát Hạnh) – và tôi sẽ dịch nó hơi thoáng một chút để ý nghĩa của bài kệ trở nên rõ ràng – “Nhờ nương tựa vào một vị anh hùng bạn tự giải thoát mình khỏi mối nguy hiểm lớn lao”. [Chương 1, câu kệ 13]. Nó có nghĩa là, chẳng hạn như nếu bạn sắp bị hành hình hay có một sự nguy hiểm nào đó cho cuộc đời bạn, thì đôi khi cách duy nhất mà bạn có thể tự giải thoát mình là nương tựa vào một người hết sức mạnh mẽ. Mối hiểm nguy mà chúng ta đối mặt là nghiệp tiêu cực mạnh mẽ, hầu như vô tận, nặng nề như một trái núi, mà chúng ta từng tạo ra trong đời này và đã tích tập suốt hàng trăm ngàn – thực ra là từ vô thủy – những đời trước. Vị anh hùng có thể cứu thoát ta là Bồ Đề tâm mà sự thực hành nó có thể tịnh hóa những ngọn núi nghiệp nặng nề, mạnh mẽ này chỉ trong chốc lát.

Nhờ nương tựa tâm anh hùng của Bồ Đề tâm, thái độ từ bỏ cái tôi và yêu mến người khác, chúng ta có thể tịnh hóa nghiệp tiêu cực nặng nề này trong thời gian của một cái búng ngón tay.

Shantideva nói tiếp: “Vì thế, tại sao những người tận tâm không nương tựa vào điều này?” Nói cách khác, ngài nói rằng nếu bạn là một người cẩn trọng, vì sao bạn không thực hành Bồ Đề tâm? Bồ Đề tâm có năng lực tịnh hóa phi thường như thế; nếu bạn là người thông tuệ, cẩn trọng, tận tâm, tỉnh giác thì tại sao bạn không thực hành Bồ Đề tâm? Lòng bi mẫn là tâm tích cực, mãnh liệt tới nỗi khi người đàn ông ở Singapore phát khởi nó thật mạnh mẽ, anh ta đã tịnh hóa nhiều nghiệp tiêu cực tới nỗi anh đã tịnh hóa được nghiệp đã khiến cho anh mắc bệnh AIDS. Nhờ lòng bi mẫn tịnh hóa nghiệp tiêu cực nên sau bốn ngày anh đã thoát khỏi bệnh AIDS. Đó chỉ là một ví dụ.

Vì thế, lòng bi mẫn không chỉ là puja tuyệt hảo, giống như câu chuyện của cô gái bị tinh linh ám nhập, không chỉ là phương pháp tốt nhất để giải trừ những chướng ngại của cuộc đời, mà nó còn là phương thuốc tuyệt vời, siêu việt để chữa lành bệnh tật. Với tâm của riêng bạn, đâu là cách tốt nhất để chiến thắng bệnh ung thư hay mọi bệnh tật nhờ việc thiền định? Đó là nhờ phát triển lòng bi mẫn, nhờ phát sinh lòng bi mẫn vì nỗi đau khổ của những người khác.

Bất kỳ khi nào bạn kinh nghiệm sự đau đớn trong mắt bạn hay một nơi nào khác trong thân thể, ngay khi nó bắt đầu, phương thức chữa trị tức thời là sự thực hành thiền định Bồ Đề tâm đặc biệt, nhận vào bản thân bạn nỗi khổ của chúng sinh và hiến tặng họ mọi hạnh phúc, công đức, thân thể và của cải của bạn. Với lòng bi mẫn hãy nhận vào bạn nỗi khổ của họ và với lòng từ ái hãy hiến tặng những người khác hạnh phúc, công đức, thân thể, của cải và v.v... Ngay khi nỗi khổ bắt đầu, dù đau đớn tới đâu, cách chữa trị tức thời, cách đối trị lập tức, phương pháp tuyệt hảo, mạnh mẽ nhất để xử sự với nó là tonglen, sự nhận và cho, thực hành đặc biệt của Bồ Đề tâm. Mặc dù thường thì tôi rất lười thực hành Pháp, nhưng nhờ thiện tâm của nỗi đau đớn tôi đã nhớ tới việc thực hành.

Thiền định này hữu hiệu tới nỗi ngay cả trước khi bạn bắt đầu thực hành thực sự, giây phút bạn bắt đầu chuẩn bị tâm bạn để nhận nỗi khổ của người khác thì sự đau đớn đã ngừng lại. Điều này cho thấy rằng ngay cả niệm tưởng yếu ớt nhất của việc hoán đổi bản thân bạn với người khác, chỉ nghĩ tới việc nhận nỗi khổ của người khác, chỉ chuẩn bị tâm bạn để làm điều đó thì cũng đã đủ làm ngừng lại nỗi đau đớn. Vì thế, nếu một hôm bạn đi bác sĩ và thình lình ông ta nói: “Ồ, bạn bị ung thư”, hay đại loại như thế, hoặc bạn bắt đầu bị một sự đau đớn, thì điều tôi khuyên bạn làm là hãy lập tức bắt đầu thiền định về Bồ Đề tâm. Đó là phương thuốc tức thì mà bạn nên dùng.

Một lần kia, đại yogi Ngagpa Chopawa đang ở trên đường đi Odi để thực hành những giai đoạn cuối cùng của tantra. Trên con đường cạnh con sông ngài nhìn thấy một người đàn bà cùi bẩn thỉu trông thật gớm ghiếc, toàn thân đầy những vết thương tươm mủ. Bà ta yêu cầu ngài đưa bà sang bờ sông bên kia, nhưng ngài phớt lờ và tiếp tục đi. Một lát sau, đệ tử của ngài là nhà sư Getsun Tsimbulwa đi tới và người đàn bà yêu cầu ông đưa bà qua sông. Ngay khi ông nhìn thấy người đàn bà cùi, ông cảm thấy một lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi và không chút do dự ông để bà ta trên lưng rồi bắt đầu qua sông. Ngay giữa dòng, hình tướng của người đàn bà bệnh tật hoàn toàn biến thành bậc giác ngộ, nữ Bổn Tôn Dorje Pagmo, Vajrayogini, ngài đưa nhà sư tới cõi tịnh độ của ngài, ở đó nhà sư chắc chắn được giác ngộ.

Điều gì đã xảy ra khi lúc đầu bà ta xuất hiện là một người đàn bà tầm thường, đầy bệnh tật, không thể chạm tới và sau đó xuất hiện trong dáng vẻ thanh tịnh của Bổn Tôn? Lúc đầu, tâm nhà sư bị nghiệp tiêu cực ngăn che, bởi tâm bất tịnh đó ông thấy bà ta chỉ là một người đàn bà bình thường đang đau khổ và không phải là một bậc giác ngộ. Nhưng bởi ông cảm thấy một lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi nỗi đau khổ của bà và hoàn toàn từ bỏ bản thân để phụng sự bà ta nên toàn bộ nghiệp tiêu cực nặng nề của ông được tịnh hóa ngay khi ở giữa dòng sông. Khi ấy cái nhìn của ông về người đàn bà hoàn toàn thay đổi và ông thấy bà là một bậc giác ngộ. Cái thấy của ông trở nên hoàn toàn thuần tịnh, và bà đưa ông tới cõi tịnh độ, ở đó bản thân ông đạt được giác ngộ. Như thế, bạn có thể thấy lòng bi mẫn để tịnh hóa nghiệp tiêu cực, tịnh hóa tâm thức thì mãnh liệt ra sao.

Tôi nghĩ rằng tôi sẽ ngừng lại ở đây. Bây giờ thì không có lý do gì để tiếp tục nữa. Có lẽ chúng ta có thể tiếp tục vào ngày mai, nếu có ngày mai. Dù thế nào đi nữa, tôi sẽ tiếp tục chủ đề trên vào ngày mai, nhưng bây giờ, để kết luận, tôi muốn nói về mục đích của việc nhập thất này.

Chúng ta đang nhập thất để phát triển lòng bi mẫn. Mục đích của việc thực hiện khóa nhập thất này là làm cho cuộc đời chúng ta thêm ích lợi, thêm hữu ích cho người khác. Bằng cách nào? Bằng cách phát triển trái tim tốt lành. Lý do chính của việc thực hiện khóa nhập thất Vajrasattva là để phát triển lòng bi mẫn, để chứng ngộ Bồ Đề tâm, cội gốc của con đường dẫn tới Giác ngộ, cánh cửa của con đường Đại thừa dẫn tới Giác ngộ.

Cho dù chúng ta đang tụng một chuỗi OM MANI PADME HUM, thì điều đó là vì Bồ Đề tâm, để chứng ngộ Bồ Đề tâm, để phát triển lòng bi mẫn. Đó là lý do khiến chúng ta trì tụng. Bất kỳ loại thực hành nào khác mà ta làm – lễ lạy, cúng dường Phật, Pháp và Tăng hay cúng dường các pho tượng, stupa (tháp) và Kinh điển hay tạo lập những công trình linh thánh – chúng ta đang làm điều ấy để phát triển lòng bi mẫn, để chứng ngộ Bồ Đề tâm, để có thể làm lợi lạc chúng sinh.

Mọi thực hành chúng ta làm – quy y, tụng bài nguyện quy y – trọng tâm của mọi thực hành của chúng ta đều nhằm tới điều đó. Cho dù chúng ta thực hành tối thiểu là tụng một chuỗi OM MANI PADME HUM hay nhập thất ba năm hoặc nghiên cứu triết học Phật Pháp trong nhiều năm, tất cả là để phát triển lòng bi mẫn, để đạt được sự chứng ngộ, đặc biệt là chứng ngộ Bồ Đề tâm. Vì thế, mỗi điều duy nhất chúng ta làm là để chúng ta ngừng làm hại người khác và làm lợi lạc cho họ. Mục đích chính của sự thực hành của chúng ta là như thế. Nếu ta không ngừng làm hại người khác thì ta không thể làm lợi lạc cho họ.

Nếu bạn thực hiện rất nhiều cuộc nhập thất, rất nhiều sadhana, tụng nhiều thần chú, nhưng nếu trong đời sống hàng ngày có người phê bình hay làm phiền bạn theo cách nào đó và bạn lập tức trả đũa, cố làm hại lại họ, thì điều đó cho thấy sự thực hành chân thực không xảy ra. Có thể có rất nhiều sự trì tụng, rất nhiều lời cầu nguyện, nhưng khi có việc phải xử sự với những người khác, thì thực hành đích thực, thực hành thực sự – mà mục đích của nó là sự phát triển tính nhẫn nhục, lòng khoan dung, bi mẫn và từ ái – đã bị quên lãng. Điều đó có nghĩa là bạn không hoàn thành mục đích của mọi lời cầu nguyện và sadhana, hay thậm chí mục đích của một chuỗi OM MANI PADME HUM mà bạn đã làm. Toàn bộ mục đích của những thực hành đó là để giúp bạn trong đời sống hàng ngày khi bạn sống với người khác – không làm hại mà làm lợi ích cho họ. Bằng cách nào? Bằng cách phát triển trong tâm bạn lòng từ ái, bi mẫn và Bồ Đề tâm; để phát triển tính nhẫn nại, lòng khoan dung và v.v...

Do đó, đặc biệt là khi bạn đang lái xe hơi và có người chặn bạn lại, quẹo cua trước mặt bạn hay không tuân theo luật lệ, khi có người lái xe khác bóp còi hay giận dữ với bạn, thì thật tốt khi nghĩ: “Nếu tôi nổi giận hay khó chịu, thì đâu là hiệu quả của tất cả thực hành mà tôi từng thực hiện? Nếu tôi không thể thực hành sự nhẫn nhục, thì tại sao tôi trì tụng tất cả những thần chú này? Mục đích của việc tôi gặp Phật Pháp là gì? Tất cả những cuộc nhập thất và trì tụng của tôi để làm gì?” Rất ích lợi khi nghĩ tưởng như thế. Nếu bạn không chuyển hóa được tâm bạn, thực hành của bạn không có ý nghĩa gì hết. Nếu bạn suy nghĩ sâu xa về nó, thì đây là cách bạn sẽ cảm nhận.

Nếu bạn nghĩ: “Nếu tôi không thực hành sự nhẫn nhục thì tại sao tôi đang thực hành tất cả những điều này? Nhằm mục đích gì? Tôi từng thực hành cái gì trong những năm qua? Mục đích của việc trì tụng ngay cả một chuỗi OM MANI PADME HUM là gì?” thì nó sẽ giúp bạn làm an định tâm bạn, đặc biệt là trong những trường hợp như thế. Như vậy, khi bạn có thể nhớ lại rằng tất cả những thực hành của bạn chủ yếu là để bảo vệ tâm bạn trong đời sống hàng ngày, để điều phục tâm bạn khiến bạn không làm hại mà chỉ làm lợi ích người khác – khi bạn có thể quán chiếu theo cách này và thực hành lòng khoan dung trong một tình huống mà thường thì bạn nổi giận – khi thay vì giận dữ thì bạn có thể khơi dậy lòng bi mẫn mãnh liệt đối với những người khác, thì đó quả là một ngày trọng đại.

Ngày mà bạn có thể cảm nhận lòng bi mẫn thay vì giận dữ thực sự là sinh nhật của bạn – sinh nhật vĩ đại của bạn đối với sự giải thoát, Giác ngộ, đối với việc làm lợi lạc và không làm hại chúng sinh khác; một ngày đáng được kỷ niệm thật long trọng.

Chừng nào mà sự Giác ngộ của bạn còn được quan tâm thì những giây phút như thế là những cơ hội rất quan trọng; những cơ hội vô cùng quý giá để đối diện với sự thách thức của việc thực hành Pháp. Những cơ hội rất quý báu.

Tương tự như thế, nếu có người sỉ nhục bạn hay làm điều gì mà bình thường thì bạn thấy khó xử, không thể chịu đựng nổi, làm cho bạn nổi giận và khó chịu, và bạn có thể khắc phục sự mê lầm sân hận của bạn, bạn đã chiến thắng, bạn đã đánh bại kẻ thù. Đứng ở quan điểm của những người bình thường trong đời sống thế tục thì bạn nên giận dữ, bạn có quyền được giận dữ. Giận dữ được coi là tích cực. Cùng cách thế đó, những người ấy nhìn sự ích kỷ như cách thế đúng đắn để sống, là điều bạn phải làm.

Tuy nhiên, sự ích kỷ duy nhất mà bạn nên tự cho phép mình là sự ích kỷ của việc quan tâm tới người khác, sự ích kỷ của việc làm lợi ích cho người khác.

Đó là cách thế đúng đắn để theo; đó là sự ích kỷ tốt lành. Sự ích kỷ cho bản thân bạn mở ra cánh cửa dẫn tới mọi vấn đề; sự ích kỷ cho người khác, sự quan tâm tới người khác, mở ra cánh cửa dẫn tới mọi hạnh phúc.

Cũng thế, nếu bạn có lòng bi mẫn, một trái tim tốt lành, thì cho dù bạn không có của cải ở bên ngoài, cuộc đời bạn vẫn giàu có; bạn thực sự là một người giàu có. Cho dù bạn có bao nhiêu của cải bên ngoài chăng nữa, nhưng nếu trái tim bạn không chút thiện tâm, nếu bạn không có một trái tim nồng ấm, nếu không có lòng bi mẫn đối với người khác, thì bạn thật nghèo nàn; sự nghèo nàn nội tâm khiến bạn trở thành một hành khất đích thực.

Vì thế, dù bạn là tu sĩ hay cư sĩ, đã thực hiện nhiều cuộc nhập thất hay không, tìm được nhiều thì giờ để nghiên cứu Pháp hay không, thì cách thức tối quan trọng để sống cuộc đời bạn là sống với lòng bi mẫn. Sống với lòng bi mẫn là cốt tủy đích thực của cuộc đời, cuộc đời tuyệt hảo để sống, điều quan trọng nhất bạn có thể làm. Cho dù bạn có thể nghiên cứu Pháp suốt cuộc đời bạn – mọi Kinh điển, tantra, mọi sự – nếu trái tim bạn rỗng tuếch giống như một thùng hàng trống không, không có những phẩm tính tốt lành, thì toàn bộ cuộc đời bạn trống rỗng. Mặc dù bạn có thể có một sự hiểu biết bao la về Phật Pháp và có thể thuyết giảng hay trì tụng toàn bộ Kinh điển và tantra của Đức Phật, nhưng nếu trái tim bạn không có lòng bi mẫn thì cuộc đời bạn không có ý nghĩa gì hết.

Cho dù bạn nhập thất khóa này qua khóa khác, sống trong hang động không bước ra ngoài hay không gặp người khác trong năm mươi, sáu mươi, bảy mươi năm, cho dù bạn trải cả đời trong ẩn thất, nhưng nếu trái tim bạn không có sự hài lòng xuất phát từ việc cắt đứt niệm tưởng về tám pháp thế gian, không có lòng bi mẫn đối với người khác, thì cuộc đời bạn thật vô nghĩa. Cho dù bạn tự nhốt mình trong một hang động không có cửa sổ hay cửa ra vào và tụng thần chú trong năm mươi hay một trăm năm, nhưng nếu trái tim bạn không có lòng bi mẫn đối với người khác thì cuộc đời bạn không có ý nghĩa.

Chẳng hạn như nếu bạn thực hành lễ lạy, thái độ của bạn là lễ lạy vì người khác, nếu trong trái tim bạn cảm nhận rằng bạn đang lễ lạy vì chúng sinh trong các địa ngục, vì các ngạ quỷ, súc sinh, vì những người khác, vì chư thiên và a tu la, nếu bạn cảm nhận trong trái tim bạn rằng bạn đang lễ lạy cho những người khác, thì cho dù chỉ có ba lễ lạy, bạn cũng cảm thấy sung sướng, hài lòng đến nỗi hành động ấy thật đáng giá. Mặc dù bạn chỉ thực hiện được ba lễ lạy nhưng ít ra chúng cũng được làm cho người khác. Tâm bạn không có sự căng thẳng; bạn cảm thấy tự do. Trong tim bạn, bạn vui hưởng những điều đó; thái độ của bạn thanh thản, an bình và hạnh phúc. Nhưng nếu thái độ của bạn là bạn đang thực hành những lễ lạy này cho bạn – để bạn không bị tái sinh trong địa ngục, thì thái độ đó thật không đáng hoan hỉ. Nếu bạn so sánh nó với thái độ khác – ngay cả ba lễ lạy vì người khác – thì bạn không thực sự hạnh phúc. Có một khác biệt to lớn trong bản tính của thái độ tinh thần của bạn; bạn không hạnh phúc và thanh thản như khi bạn lễ lạy vì người khác.

Cũng có một khác biệt to lớn trong khía cạnh động cơ. Khi bạn hồi hướng mỗi lễ lạy cho người khác, với mỗi lễ lạy bạn tích tập công đức, thiện nghiệp, giống như bầu trời bao la vô hạn. Khi thái độ trong trái tim bạn là: “Tôi đang thực hành điều này để không bị sinh ra trong địa ngục, để tôi không bị đau khổ trong những cõi thấp”, thì mục đích của bạn hết sức giới hạn, tầm thường. Mục đích của bạn – để bản thân bạn không bị sinh trong những cõi thấp – thì quá nhỏ bé, quá giới hạn, và vì thế những lợi lạc của những lễ lạy bạn làm cũng nhỏ bé, giới hạn một cách tương ứng.

Vì thế, có một khác biệt to lớn giữa hai thái độ đó. Cho dù động lực của bạn vẫn là Pháp – bởi bạn đang làm việc cho hạnh phúc của đời sau của bạn – sự khác biệt thật khổng lồ. Nói cách khác, khi bạn tụng một thần chú Vajrasattva hay một chuỗi OM MANI PADME HUM, bạn nên cảm nhận trong trái tim bạn rằng tất cả chúng là để mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Mục đích đứng sau nó là như thế. Theo cách đó, với Bồ Đề tâm trong trái tim bạn, bạn cảm nhận rằng mỗi thần chú Vajrasattva là vì những người khác, thì mỗi thần chú trở thành 100.000 thần chú Vajrasattva. Nếu mỗi thần chú bạn tụng chỉ để cho bản thân bạn thành tựu hạnh phúc vĩnh cửu của sự giải thoát khỏi sinh tử hay để có những đời sau tốt đẹp hơn, hạnh phúc trong những đời sau cho riêng mình bạn, thì điều đó không mang lại cho bạn công đức bao la như bầu trời. Bạn thất bại về điều đó. Bởi bạn không phát triển động lực Bồ Đề tâm, bạn mất cơ hội trong việc mỗi thần chú gấp bội lên 100.000 lần. Cho dù việc trì tụng của bạn trở thành một Phật sự bởi động lực của bạn là đức hạnh – nghĩ tưởng rằng bản thân bạn không đau khổ trong những cõi thấp, làm việc vì hạnh phúc của bạn trong những đời sau – cho dù bạn tụng bao nhiêu thần chú Vajrasattva hay OM MANI PADME HUM, khi bạn so sánh những lợi lạc của chúng với những gì bạn thâu hoạch được khi trì tụng các thần chú với Bồ Đề tâm, thì những lợi lạc ấy hầu như vô nghĩa, uổng phí.

Mục đích của việc nhấn mạnh vào động lực Bồ Đề tâm vào lúc bắt đầu mỗi thời khóa, thường xuyên lập lại nó, là để nhắc nhở bạn phát triển Bồ Đề tâm khiến bạn không làm uổng phí những thần chú Vajrasattva mà bạn trì tụng.

Điều đó cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ làm lợi lạc cho người mới nhập thất nhờ chỉ rõ cho họ cách thực hành thiền định, việc thường xuyên lập lại cũng giúp cho những người đã có mặt ở đây từ lúc bắt đầu hiểu rõ tầm quan trọng của động lực Bồ Đề tâm và để nhớ phát triển nó trong mỗi thời khóa.

Dĩ nhiên là vào lúc này tâm tôi đã hoàn toàn sa sút, nhưng trong quá khứ, nếu tôi nhận ra là mình đã tụng một chuỗi thần chú mà không có Bồ Đề tâm, thì tôi cảm thấy mình đã lãng phí toàn bộ các chuỗi đã tụng và tôi sẽ lập lại nó với động lực đúng đắn.

Khi bạn có một thái độ bi mẫn thì ngay lập tức bạn có sự an bình và hạnh phúc trong đời bạn. Bất luận bạn sống với ai bạn cũng thấy hạnh phúc và thoải mái. Khi bạn có lòng bi mẫn đối với người khác thì bạn hạnh phúc khi sống với bất kỳ ai. Cho dù bạn sống đơn độc một mình thì bạn cũng sung sướng. Nếu trong hiện tại bạn có hạnh phúc và sự thoải mái thì tâm thái này của bạn có tương lai tốt đẹp nhất. Không chỉ có thế, bạn cũng chết trong cách thế tuyệt hảo. Nếu bạn chết với lòng bi mẫn thì tâm bạn sẽ hạnh phúc và an bình và bạn sẽ không chết với sự ân hận hay tội lỗi. Cách thức tuyệt hảo để chết là chết với lòng bi mẫn đối với người khác. Cũng thế, nếu bạn muốn tái sinh trong một cõi tịnh độ, chết với lòng bi mẫn là cách thức tốt nhất để làm cho điều đó xảy ra. Nếu bạn chết với lòng bi mẫn thì không chỉ cái chết của bạn sẽ an bình và hạnh phúc, mà bạn cũng sẽ nhận được những tái sinh tốt đẹp trong tất cả những đời sau của bạn, giải thoát khỏi sinh tử và đạt được sự Toàn Giác – tất cả những phẩm tính tốt lành bao la của thân, ngữ, tâm linh thánh của Đức Phật sẽ là của bạn, và bạn sẽ có thể làm giác ngộ vô lượng chúng sinh.

Với lòng bi mẫn, cả hiện tại lẫn tương lai của bạn đều được hạnh phúc.

Lama Zopa Rinpoche

Việt dịch: Thanh Liên

Nguồn: Năng Lực Chữa Lành Của Lòng Bi Mẫn

Comments are closed.