Tiểu sử ngắn của Đức Tulku Urgyen Rinpoche

Đức Tulku Urgyen Rinpoche sinh tại miền Đông Tây Tạng vào ngày 10 tháng 4 theo Tạng lịch năm 1920. Ngài được xác nhận bởi Đức Pháp Vương Gyalwang Karmapa đời thứ 15 là Hóa thân của Đức Chöwang Tulku và Nubchen Sangye Yeshe, đệ tử tâm truyền của Đức Liên Hoa Sanh. Đạo sư Chowang đời thứ nhất (1212-70 AD) là một trong Năm Khai Mật Tạng Vương, vị khai phá các bản văn bí mật được cất giấu bởi Đạo sư Liên Hoa Sinh vì lợi ích của các thế hệ sau.

Tu viện chính của Đức Tulku Urgyen Rinpoche là Lachab Gompa ở Nangchen, miền Đông  Tây Tạng. Tại đây, Ngài nghiên cứu và thực hành giáo lý của cả hai trường phái Phật Giáo Tây Tạng Kagyu và Nyingma. Trong các trường phái Kagyu lớn, dòng dõi của Ngài là những vị hộ trì chính của Dòng truyền thừa Barom Kagyu.

Trong truyền thống Nyingma, Đức Tulku Urgyen nắm giữ toàn bộ giáo lý của ba bậc Thầy tâm linh vĩ đại thế kỷ 19 là Đức Terchen Chokgyur Lingpa, Jamyang Khyentse Wangpo và Kongtrul Lodro Thaye. Ngài sở hữu một trao truyền đặc biệt gần gũi dành cho các Kho tàng mới đã được tái khám phá bởi cụ của Ngài, Đức Terchen Chokgyur Lingpa. Đây là tuyển tập các  giáo lý, quán đảnh, trao truyền đọc và giáo huấn khẩu truyền bởi Đức Liên Hoa Sinh. Rinpoche đã trao truyền truyền thống quý báu này cho các nhiếp chính của dòng truyền thừa Karma Kagyu cũng như  nhiều vị tulku, tu sĩ và cư sĩ khác của học viện.

Tại sao Tulku Urgyen Rinpoche có mối quan hệ sâu sắc với Dòng truyền thừa của các vị Karmapa?  Đức Gyalwang Karmapa thứ 14 là một trong những vị thọ giáo chính các terma của Chokgyur Lingpa, nhận các quán đảnh từ chính vị terton này . Một thế hệ sau này, cháu của Chokgyur Lingpa, Đức Tulku Samten Gyatso,  vị Thầy gốc của Đức Tulku Urgyen Rinpoche, đã ban trao truyền giống như vậy tới Đức Gyalwang Karmapa thứ 15, Khakyab Dorje. Cuối cùng, Đức Tulku Urgyen Rinpoche đã vinh dự ban trao truyền chính của Chokling Tersar  tới  Đức Rangjung Dorje Rigpey, Gyalwang Karmapa đời thứ 16. Hơn nữa, Đức Tulku Urgyen cảm thấy may mắn khi có thể ban các trao truyền cho Dzogchen Desum quan trọng, "Ba phần của Đại Toàn Thiện," tới cả Đức Pháp Vương Karmapa và Đức Pháp Vương Dudjom Rinpoche,và các tulku, tu sĩ của Kagyu và Nyingma cùng các cư sĩ khác.

Đức Tulku Urgyen Rinpoche đã thiết lập sáu tu viện và các trung tâm nhập thất ở Nepal, quan trọng nhất là một tu viện lớn ở Boudhanath, gần Đại  Bảo Tháp Jarung Khashor, và liền kề với hang động Asura nơi Đức Liên Hoa Sinh đã thành tựu cấp độ Trì Minh Vương Đại Thủ Ấn (Mahamudra Vidyadhara).

Trong 33 năm, Đức Tulku Urgyen ngụ tại Nagi Gompa Hermitage, cao trên sườn phía nam của ngọn Shivapuri nhìn ra Thung lũng Kathmandu. Ở đó, Ngài đã ẩn tu trong hơn hai thập kỷ và hoàn thành các khóa nhập thất 3 năm theo truyền thống bốn lần. Dưới sự hướng dẫn của Ngài, hơn 300 tăng ni đã nghiên cứu và thực hành Pháp.

Năm 1980, Đức Tulku Urgyen Rinpoche và con trai cả của Ngài, Đức Tulku Chokyi Nyima Rinpoche đã du hành khắp châu Âu, Mỹ và Đông Nam Á  ban giáo lý Đại Viên Mãn và Đại Thủ Ấn cũng như các quán đảnh đến các cư sĩ cuồng nhiệt. Kể từ  đó, hàng năm gia đình của vị Lạt ma cao cấp này đã cùng nhau tham sự Hội thảo Fall tại điện thờ chính của Tu viện Ka-Nying Shedrub Ling về giáo lý Phật giáo tinh yếu, kết hợp với Kiến, Thiền, Hành của Đại Viên Mãn, Đại Thủ Ấn và Trung đạo.

Các giáo lý Đại Viên Mãn và Đại Thủ Ấn, trong khi rất sâu rộng và thâm diệu, lại có thể được cô đọng thành thành các câu đơn giản áp dụng được ngay cho tình trạng tâm thức hiện tại của chúng ta. Đức Tulku Urgyen Rinpoche, được xem như là một Đạo sư Dzogchen  siêu phàm, nổi danh vì đã thực hiện thiền định chuyên sâu và với phong cách ngắn gọn, dễ hiểu và hài hước mà ông truyền đạt về bản chất của 84.000  pháp môn. Ít quan tâm đến loại hình kiến thức mang tính hệ thống hoặc với các bước lô-gic của triết học, Đức Tulku Urgyen trực tiếp chạm vào trạng thái tâm của người lắng nghe. Phương pháp giảng dạy của Ngài bao gồm "Giáo huấn thông qua kinh nghiệm của bản thân.”  Như vậy, chỉ với một vài từ, giáo lý của Ngài  đã trực tiếp chỉ ra bản chất của tâm thức, hiển lộ sự đơn giản tự nhiên của sự tỉnh thức và tạo điều kiện cho các học viên có thể thực sự chạm vào Trái Tim Trí Tuệ của Đức Phật.

Các ấn phẩm của Đức Tulku Urgyen Rinpoche bằng tiếng Anh, bao gồm:  Vang vọng lời Phật dạy, Như Nó là 1 & 2,  Vẽ cầu vồng và Lời nói Kim cương. Hồi ký và các câu chuyện về cuộc sống của Ngài được kể lại bởi Rinpoche, trong ấn phẩm gần đây Blazing Spendor. Sách được xuất bản bởi Rangjung Yeshe Publications

Chẳng bao lâu trước bình minh ngày 13 tháng hai 1996, Đức Tulku Urgyen Rinpoche đã nhập Niết bàn và rời bỏ thế giới này. Suốt ngày hôm đó, bầu trời phía trên phòng nhập thất của Ngài  xanh biếc, trong suốt như pha lê, không một gợn mây.

http://www.shedrub.org/teacherpage.php?tid=1

Nguyên tác : Đức Chokyi Nyima Rinpoche và Erik Pema Kunsang.

Việt ngữ : Nhóm Rigpa Lotsawas

Hiệu đính : Giác nhiên

Mọi sai sót đều do người dịch và người hiệu đính. Có chút phước đức nhỏ nhoi nào xin hồi hướng cho những ai có duyên với Đức Tulku Urgyen Rinpoche đều được Ngài dẫn dắt sớm liễu thoát sinh tử và cầu mong nhờ công đức này tái sinh của Ngài, Tulku Urgyen Yangsi Rinpoche sớm quang lâm đến Việt nam.

Comments are closed.