Đôi nét về Bậc nắm giữ truyền thống Mindroling

Truyền thừa Mindoling

Cây Truyền thừa Mindrolling

Sư Tổ Terdag Lingpa - Trì Minh Vương Bất Biến Kim Cương - Vị sáng lập tu viện Mindrolling

Như tiên tri trong chính kho tàng ẩn dấu của ngài có đoạn:

Vào thời điểm của năm sự suy đồi, Khi mà tuổi thọ trung bình của con người quá thấp, Ở một nơi được gọi là Yoru ở tỉnh Dra miền tây nam Samye,Tại ngã ba của thung lũng hướng về phía bắc nhìn trông như nòng súng được treo lên ở Lha Zhol,Đến một người cha tên là Tse một hóa thân của Phật Jana và mẹ mang tên Yangchen một hóa thân của Shelkar Tshoden,

Đứa bé mang tên Pema một yogi theo kiểu hành giả Mật tông sẽ tái sinh trong năm con chó lửa;

Ngài không thấp cũng không cao với sự phức tạp bóng bẩy biểu tượng cho Ratna bộ,
Ngài sẽ có lòng sùng mộ vững chắc với tôi, Đức Pema và lên 18, ngài sẽ bắt đầu phát hiện các kho báu.

Theo điều này, và các tiên tri tương tự từ các kho tàng khác, chúa tể tối thượng của các giáo lý bí mật nhất, hóa thân về khẩu của Đức đại dịch giả Vairocana, Minling Terchen Pema Garwang Gyurmed Dorje sinh ra trong gia đình với cha là Đức Noeten Chenpo Sangdag Thinley Lhundup, hậu duệ của gia đình Noe và mẹ và Đức Rigza Hazin Yangchen Dolma – hóa thân của Shelkar Dorji Tsho năm 1646 sau Công nguyên vào ngày thứ mười tháng 2 theo Tạng lịch tương ứng với năm con chó lửa trong chu kì rabjung thứ 11 ở Dranang Dargye Choling với rất nhiều điềm kiết tường.

Ngay khi đản sinh, người cha nổi tiếng của ngài đã ban cho ngài các quán đánh và gia trì để xua tan các chướng ngại. Ngài được bảo vệ bởi các bổn tôn Hộ pháp trong hình tướng một vị yogi với tóc tết và hai cô gái xinh đẹp từ khi rất nhỏ, điều mà thậm chí sau đó ngài vẫn nhớ. Khi ngài còn trong lòng mẹ hay đang chơi đùa với những đứa bé khác, ngài hiển bày những dáng điệu của Định với nhiều dấu hiệu tốt lành khác, điều đã truyền niềm tin cho rất nhiều người. Ở tuổi lên bốn khi ngài nhận được các quán đảnh của toàn bộ bí mật của tám giáo lý nghi quỹ (Kagyed Sang-Dzog), ngài thiết lập ý nghĩa hoàn hảo của bốn quán đảnh trong tâm trí tuệ của ngài.

Minling_Terchen

Sư Tổ Terdag Lingpa

Lên mười tuổi, khi ngài đang nhận quán đảnh của tập hội các Đấng Thiện Thệ (Desheg Duepa), ngài được quán đảnh và gia trì bởi Đức Ugyen vĩ đại trong hóa thân chói lọi nhờ sức mạnh mà ngài có được trong việc thấu suốt ý nghĩa của quán đảnh cái bình bằng trực giác sống động chân thực của mình (Bum Wang). Vào lúc đó, ngài trở nên thông thạo những điều cần thiết của một đạo sư như là đọc, viết và các phương thức nghi lễ truyền thống và nhiều điều khác không chút khó khăn. Bởi vậy, từ đó trở đi ngài thành tựu mọi hoạt động giác ngộ đại diện cho người cha đáng kính của ngài.

Lên 11, ngài gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm ở Pelden Drepung, người đã thực hiện lễ cắt tóc đầu tiên và ban cho ngài pháp danh Ngawang Pema Tenzin. Thời điểm cuộc gặp gỡ của các ngài trùng với thời điểm ảnh tự sinh khởi Đức Quan Âm (Avalokiteshvara) của Kyidrong đến, ngài đã bộc lộ sự thích thú với sự trùng hợp tốt lành đó. Trong sự trùng hợp đó, một tia sáng từ trái tim của bức tượng tự sinh khởi và tan hòa vào thân của đức Terchen. Sau đó, khi ngài gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm ở Samye, ngài xuất hiện trong hình tướng Đức Quan Âm dưới quang kiến của người sau (Đức Đạt Lai Lạt Ma). Ngài coi cha mình và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm là hai bậc thầy gốc vô song, bởi lẽ họ không những che chở ngài trong suốt cuộc đời của họ, mà còn sau khi vào niết bàn, hai vị vẫn tiếp tục gia hộ cho ngài với thân trí tuệ của mình. Ngài cũng có 16 vị đạo sư vĩ đại, ngài đã nhận được từ họ những giáo lý sâu xa về sự chín muồi và giải thoát và 35 vị đạo sư khác, từ họ ngài nhận được rất nhiều các giáo lý uyên thâm khác nữa. Từ những vị đạo sư này ngài thọ được ba giới nguyện làm nền tảng và nhận được các khẩu truyền về toàn bộ giáo lý kinh điển của Cựu Dịch còn được lưu truyền đến ngày nay, như là kinh Tập hội vĩ đại (dupa-do), Hóa thân huyền bí (gyu-trul), Kilay (phurpa), và nhiều kinh điển khác cùng với rất nhiều các giáo lý Tân Dịch và toàn bộ giáo huấn của Đức Phật (Ka-Gyur), nền tảng của mọi giáo lý khác của Phật.

Đặc biệt, ngài nhận được toàn bộ các quán đảnh và khẩu truyền Ngagyur Kama và Terma, những giáo lý có nguy cơ biến mất với những khó khăn lớn lao. Như thế, ngài đã truyền một sức sống mới vào dòng truyền không gián đoạn của các giáo lý Kama và Terma. Từ năm 13 tuổi, ngài đã nhận được các bài giảng từ cha về mật điển gốc, tinh túy bí mật (tsa gyud sangwa nyingpo), chuỗi liên tục tối thượng (gyud lama), an trú trong trạng thái tự nhiên của tâm (sem-nyid ngal gso) … và đã ghi nhớ cả các bản văn gốc và luận giải. Đặc biệt, ngài đã được truyền trao nhiều điểm trọng yếu trong những bản văn của Kunkhen Longchen Rabjam, những giáo lý cho ngài sức mạnh thấu suốt mọi hiện tượng, phá tan mọi nghi ngờ của ngài.

Nói tóm lại, ngài đã học hỏi và tinh thông mọi giáo lý Phật Đà, cả Cựu và Tân Dịch một cách toàn hảo, đã được đúc kết trong kinh điển, mật điển và các chỉ dẫn cốt tủy. Đây là vài nét phác họa về việc làm thế nào ngài hoàn tất lộ trình học tập thông qua việc đọc, lắng nghe và suy tư (Logpa thoe-sam gyi khorlo) cả Tam thừa giáo pháp.

Khi đã xua tan những hoài nghi và sai lạc về mọi kinh điển và mật điển sâu xa với sự thấu hiểu chắc chắn, ngài đã áp dụng vào thực hành thông qua thiền định. Ngài tiến hành nhập thất, bắt đầu từ một tháng, ba tháng, sáu tháng và nhiều năm ở những nơi cô tịch như là, Dragmar Chimphug, Yamalung, Yodsel-tse, Samten-tse và nhiều nơi khác, về thực hành trì tụng các đạo sư an bình và phẫn nộ, Đức Kim Cương Tát Đỏa, tám bổn tôn vĩ đại và nhiều vị khác. Các thực hành chính yếu về cắt đứt (tregchod) và làm an dịu (thod-gal) của Dzogpachenpo cùng với thực hành prana. Khi đã hoàn thiện các thực hành này với giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện, mọi ý niệm bất tịnh của ngài đã ngừng bặt và ý định giác ngộ của mọi biểu hiện nhận thức được khởi lên trong ngài. Bởi vậy, ngài có thể hoàn thành tất cả bốn hoạt động mà không gặp chướng ngại.
Mỗi vẻ ngoài và hành động chỉ là sự hiển bày của trí tuệ, thân trí tuệ của các hiền triết Ấn Độ và Tây Tạng vĩ đại như là, Đức Đại Đạo sư Liên Hoa Sinh, Vimalamitra, Hungze, Sangye Sangwa, Vairocana, Tshogyal, Nangral, Kuenkhen Choje và nhiều vị khác, xuất hiện trước ngài và bài trí mạn đà la các hóa thân và trao truyền vô số quán đảnh Kama và Terma cùng với các giáo lý quý báu riêng của các ngài, với sự giải thích các chỉ dẫn cốt tủy cho con đường rộng lớn. Các vị bổn tôn hướng dẫn như Vajrakumara (Dorji Zhonnu), Kim Cương Tát Đỏa (Dorje Sempa), Quan Âm (Thugje Chenpo), các bổn tôn an bình và phẫn nộ (Zhi-Thro), Nal-Jorma (yogini) và nhiều vị bổn tôn khác đã hiển lộ với ngài và trao truyền các quán đảnh và gia trì. Ngài có thể đi đến rất nhiều cõi tịnh độ như là Cực Lạc (Dewachen), Núi Huy Hoàng (Ngayabling) và nhiều nơi khác khi đã nắm vững thiền định tịnh hóa nền tảng. Ngài cũng có vô số linh kiến diệu kỳ như việc nhận các thông điệp bí mật từ chư Dakini và các vị Hộ Pháp và các ngài cũng tự nhiên thành tựu mọi hoạt động pháp. Bởi ngài sở hữu sự thấu suốt tương lai hoàn hảo tự nhiên không ngăn ngại, ngài tiên đoán rất nhiều về tương lai, sau đó đã diễn ra đúng như thế và trở thành những biện minh giá trị. Đây là vài nét cơ bản về việc làm sao ngài thành tựu con đường xả bỏ thông qua thiền định.

Bắt đầu từ 10 tuổi, ngài bắt đầu thành tựu các hoạt động giác ngộ, đại diện người cha vĩ đại của ngài thông qua các hoạt động giải thích, tranh luận, luận giảng và giảng dạy, thực hành. Theo tiên tri đề cập bên trên, ngài phát lộ Rigzin Thug-thig (tinh túy cốt tủy của Đức Kim Cương Trì) từ Yamalung ở tuổi 18 trong ngày 10 tháng 5 năm con chuột nước theo Tạng lịch.

Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1005373596181123&id=746808095371009&substory_index=0

Comments are closed.