Tiểu sử Đức Thamthog Rinpoche

Thamthog Rinpoche thuộc dòng tái sinh Thamthog. Ngài sinh ở miền Đông Tây Tạng vùng Lithang. Khi lên năm tuổi, giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Trijang Rinpoche, đã nhận ra Ngài là Thamthog Rinpoche thứ mười ba.

Để nhận ra Ngài, người ta đã đưa cho Ngài nhiều đồ vật và Ngài đã nhanh chóng nhận ra tất cả những món đồ Ngài đã dùng trong đời trước.

Ngài được đưa về tu viện Lithang tỉnh Kham, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba thành lập. Lúc đó toàn bộ bảy ngàn tăng ở tu viện đã tham dự lễ công nhận Thamthog Rinpoche.

Ngài sống ở tu viện cùng các đạo sư và bắt đầu học thuộc kinh điển và văn hoá Tây Tạng cho đến năm tám tuổi. Lúc đó cách mạng văn hoá ở Trung quốc bắt đầu, người Trung Quốc đến Lithang; Rinpoche rời Lithang về Lhasa, thủ đô Tây Tạng, trú xứ của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ngài học triết học ở tu viện Sera Je ở Lhasa. Giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ling Rinpoche đã ban giới Sa Di (tiếng Tạng là Getsul) cho Ngài. Ngài cũng nhận pháp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Lhasa. Những pháp đầu tiên là Lam Rim và Kalachakra.

Năm 1959 Rinpoche mười một tuổi và trốn sang Ấn Độ. Cuộc hành trình đi bộ kéo dài bốn tháng; Rinpoche chỉ có quần áo mặc trên người và đã lặn lội dưới trời mưa, tuyết, dưới làn đạn của quân đội Trung Quốc suýt giết chết Ngài nhiều lần. Ngài đã trải qua nhiều sợ hãi và khó khăn gian khổ nhưng đó là một trải nghiệm quan trọng trong cuộc đời Ngài.

Bốn tháng sau, cuối cùng Ngài cũng đến được Ấn Độ.

Từ đó Rinpoche tị nạn ở Ấn Độ như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài rất nghèo, tìm được thức ăn và quần áo rất khó khăn nên suốt ba năm liền Ngài không có giày dép để đi, vì không có tiền để mua. Nhưng một lần nữa, đó là trải nghiệm rất tốt và là bài học rất quan trọng với Ngài.

Nhờ lòng từ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Rinpoche được đi học lại triết học Phật Giáo ở tu viện Sera Je miền Nam Ấn. Ngài đã tu học trong hơn hai mươi năm. Ở tuổi hai mươi Ngài thọ giới Tỳ Kheo (tiếng Tạng là Gelhong).

Ngài còn nhận rất nhiều lễ quán đảnh quan trọng, pháp và luận giải của nhiều dòng truyền thừa khác nhau.

Năm 1982 Rinpoche trở thành tiến sĩ, một trong những bằng cấp cao nhất trong Phật học, sau đó Ngài vào trường đại học Mật để hoàn thiện kiến thức và các nghi lễ Mật giáo.

Rinpoche được mời đến Ý nên Ngài đến Milan, cùng với Geshe Tenzin Gonpo Ngài đã quản lý Viện Ghe Pel Ling ở Milan. Lúc mới đầu chỉ có mười, mười hai đệ tử, hiện nay đã có hơn 3.600 thành viên. Rinpoche đã tổ chức nhiều hoạt động ở Ý và cũng đã thỉnh Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Milan thuyết pháp năm lần. Rinpoche từng trở lại Lithang cùng hơn 40 đệ tử người Ý. Ngài đã thành lập một trường học và một bệnh viện ở đó, giúp cho người dân địa phương học tập và duy trì văn hoá cũng như chăm lo cho sức khỏe của họ.

Trong suốt thời gian đó Rinpoche đã giúp đỡ, chu cấp cho nhiều tu viện ở Ấn Độ và luôn cống hiến đời mình cho người khác và nhận lãnh trách nhiệm chăm sóc họ. Ngài cũng đã đến Usa và nhiều nước phương Đông để thuyết pháp, Ngài có nhiều đệ tử ở khắp nơi trên thế giới.

Năm 2010 Đức Đạt Lai Lạt Ma bổ nhiệm Rinpoche làm tu viện trưởng tu viện riêng của Đức Ngài ở Dharamsala, tu viện Namgyal. Tháng tám năm đó Ngài nhậm chức tu viện trưởng và đến nay cuộc đời Ngài được cống hiến hoàn toàn cho việc quản lý tu viện và phụng sự Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài cũng được bổ nhiệm điều hành một trong chín văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Rinpoche đang nỗ lực rất nhiều cho tu viện và phụng sự Đức Đạt Lai Lạt Ma, tận hiến sức lực và thời gian cho hoạt động quan trọng này.

Nguồn: http://www.phendeling.net/introduce

Comments are closed.