Thể dạng trung gian hay bardo

Chủ nhật 30 tháng 6 năm 1985

Như tôi đã nói đến trong ngày hôm qua, cần nhất quý vị phải luôn nhớ đến cơ sở hỗ trợ mà mình đang có [thân xác của chính mình]. Hiện chúng ta đang được thừa hưởng thân xác con người, ta phải hiểu rằng thân xác đó hàm chứa thật nhiều khả năng, chẳng hạn như tâm thức chúng ta tượng trưng cho một khả năng tuyệt vời. Không nên quên là với cơ sở quý giá đó và lòng quyết tâm chúng ta sẽ thực hiện được bất cứ mục tiêu mong cầu nào.

Không phải chỉ cần nghe giảng, tu tập Đạo Pháp (Dharma) và suy tư một cách hời hợt về dịp may quý hiếm được làm người là đủ. Phải tâm niệm về các điều đó trong cuộc sống thường nhật, không phải chỉ nghĩ đến là đủ. Phải ý thức một cách sâu xa nhờ vào cơ sở hỗ trợ ta sẽ thực hiện được bất cứ mục tiêu mong muốn nào, vì thế phải sử dụng mọi phương tiện sẵn có, dồn tất cả sinh lực, sức cố gắng của mình để tu tập hầu mang lại hạnh phúc bền vững.

Có rất nhiều phương pháp tu tập khác nhau, thế nhưng phương pháp mà tôi sắp đề nghị với quý vị hôm nay là phương pháp biến cải mọi hành vi thân xác, ngôn từ và tâm thức.

Đấy là cách biến tất cả các hành động giữ gìn kỷ cương thân xác, ngôn từ và tâm thần trở thành vô số nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Nếu chúng ta hội đủ vô số những nguyên nhân ấy, nhất định hậu quả sẽ phát sinh.

Tất nhiên sẽ có người không hoàn toàn đồng ý: "Thế nhưng cũng phải lo làm ăn chứ! Phải tìm kế sinh nhai!". Tất nhiên ta phải làm việc, phải tự cáng đáng và lo cho sự sống của mình. Không ai làm thay những chuyện ấy cho ta được, thế nhưng đâu có gì mâu thuẫn và đối nghịch không thể giải quyết được giữa công ăn việc làm và sự giữ gìn kỷ cương trên thân xác, ngôn từ và tâm thức hầu mang lại hạnh phúc cho mình.

Vậy làm thế nào để biến tất cả mọi sinh hoạt thường nhật và kỷ cương đạo đức trở thành nguyên nhân mang lại hạnh phúc? Có một phương pháp thật tốt, một phương pháp tối thượng, ấy là phương pháp giúp ta đạt được tâm thức giác ngộ, phát huy Bồ đề tâm (Bodhicitta) hầu tạo ra trong tim ta những xúc cảm từ bi, thúc dục ta cố gắng mang lại sự an lành cho tất cả chúng sinh. Nếu ta thực hiện được tâm thức đó, tự nhiên tất cả mọi kỷ cương đạo đức và mọi sự sinh hoạt của ta tự động biến thành nguyên nhân mang lại hạnh phúc cho ta. Thật quan trọng và có thể nói là bắt buộc nữa mỗi chúng ta cần phải tạo ra cho mình thể dạng tâm thức giác ngộ đó. Được làm thân con người, chúng ta phải lợi dụng dịp may đó để thực hiện Bồ đề tâm.

Khi đạt được một tâm thức giác ngộ, tất cả các hành động của ta đều dễ dàng trở thành nguyên nhân mang lại hạnh phúc và thể dạng một vị Phật, đúng như câu châm ngôn người Pháp thường nói "dễ dàng như một chiếc xe lửa khi đã lăn bánh trên đường ray".

Một Đại sư thông thái người Ấn là Tịch Thiên (Shantideva, thế kỷ thứ VIII) giải thích sự kiện ấy như sau: khi đã thực hiện được tâm thức giác ngộ, tất cả mọi sinh hoạt của ta kể cả trong giấc ngủ, trong lúc vô tư hoặc đang tản bộ... đều tượng trưng cho những gì xứng đáng trong ta và chúng không ngừng tăng trưởng.

Trước mặt chúng ta trong giảng đường này là một pho tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta nên nhớ là tất cả chúng sinh muốn trở thành Phật phải đạt được thể dạng tâm thức Giác ngộ tương tự như tâm thức của Ngài. Hiện nay chúng ta chưa đạt được thể dạng tâm thức đột khởi đó, thế nhưng chúng ta nên cố gắng thực hiện ngay trong lúc này và tại nơi này, hoặc ít ra cũng cố tình tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức tuy giả tạo nhưng phải gần giống với tâm thức Giác ngộ của Phật. Đấy là một trong các cách chuẩn bị và tạo ra những điều kiện tiên khởi giúp tất cả chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập với nhau.

Chúng ta cố gắng học hỏi hay tu tập chính là nhờ có Bồ đề tâm và tâm thức giác ngộ thúc đẩy. Thế nhưng vẫn chưa đủ chúng ta phải cố gắng nhiều hơn thế nữa trong từng hành động hàng ngày. Mỗi sáng sau khi thức dậy, tắm rửa thay quần áo xong ta phải nghĩ ngay đến các động cơ thúc đẩy ta trong ngày hôm nay. Ta nên nghĩ đến một sự kiện thật tuyệt vời, tối hôm qua sau khi nằm xuống giường và ngủ một giấc thật dài ta lại may mắn được thức dậy sáng hôm nay. Chỉ cần nghĩ đến sự kiện thật bình thường và đơn giản như thế cũng đủ mang lại sự hân hoan trong lòng mình. Đây lại thêm một ngày nữa đang mở ra trước mặt giúp ta sử dụng nó để mang lại an lành cho tất cả chúng sinh, tạo hạnh phúc cho họ và giúp họ vượt thoát khỏi khổ đau. Ta nhất quyết sử dụng ngày hôm đó để cố gắng đạt được thể dạng của một vị Phật hầu giúp ta đủ khả năng mang lại hạnh phúc cho người khác. Dù có quý vị nào không phải là người Phật giáo cũng cứ nghĩ rằng nên sử dụng ngày hôm ấy để mang lại một chút an vui cho người khác.

Đến đây chúng ta thử nhìn vào chính chúng ta xem sao. Ta sẽ thấy rằng mình không muốn gánh chịu khổ đau dù đấy chỉ là một thứ khổ đau thật nhỏ nhoi, và đồng thời ta lại mong cầu lúc nào cũng đạt được hạnh phúc. Nếu đúng thế cũng nên hiểu rằng tất cả chúng sinh trong cõi ta bà cũng chẳng khác gì với ta, tất cả đều mong cầu hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau. Tuy rằng mong muốn hạnh phúc, thế nhưng trên thực tế tất cả chúng ta luôn phải đương đầu với đớn đau và khổ nhọc. Ý thức được sự thật đó chính là nguyên nhân thúc giục chúng ta tu tập trong mục đích cứu giúp chúng sinh vượt thoát khỏi mọi khổ đau.

Xin trở lại chủ đề học hỏi của chúng ta hôm nay là cái chết, thể dạng trung gian và sự tái sinh.

Phật giáo đưa ra một phương pháp tu tập giúp biến ba giai đoạn ấy trở thành ba thể dạng gọi là Tam Thân của đấng Tối Thắng, tức của một vị Phật. Muốn tu tập theo phương pháp đó phải hiểu rõ ba thể dạng chết, bardo và tái sinh là gì, chúng diễn tiến ra sao.

Đối với Phật giáo nói chung và riêng đối với Tantra thừa, khái niệm về Tam Thân được trình bày dưới ba thể dạng sau đây:

- Tam thân căn bản,

- Tam thân trên đường tu tập,

- Tam thân kết quả.

Tất nhiên là quý vị đã hiểu Tam Thân là gì, đấy là:

- Dharmakaya, hay Pháp Thân,

- Sambhogakaya hay Thụ dụng thân,

- Nirmakaya hay Biến hóa thân.

Mỗi thân có ba cấp bậc: pháp thân căn bản, thụ dụng thân căn bản, biến hóa thân căn bản; pháp thân trên đường tu tập, thụ dụng thân trên đường tu tập, biến hóa thân trên đường tu tập; Pháp Thân kết quả, Thụ dụng thân kết quả và Biến hóa Thân kết quả.

Các "thân căn bản" là gì? Tuy gọi là "thân" thế nhưng chưa đúng là thuật ngữ dùng chỉ định cấp bậc "Thân" của chư Phật, "thân căn bản" chưa phải là Thân Phật. Đối với các loại "thân trên đường tu tập" cũng thế, chưa phải là Thân Phật. Cấp bậc "Tam thân kết quả" mới đúng là Tam Thân Phật.

Vậy pháp thân căn bản hay thân Đạo Pháp căn bản là gì? Chúng ta đã mô tả sơ lược hôm qua [nhưng không gọi tên một cách chính xác], "pháp thân căn bản" chính là "ánh sáng trong suốt của cái chết", có nghĩa là tâm thức và "khí" cực kỳ tinh tế. Đối với một người bình thường, các giai đoạn thuộc quá trình của cái chết xảy ra tuần tự, một trong các giai đoạn đó là ánh sáng trong suốt của cái chết. Các giai đoạn như vừa kể cũng xảy ra khi ta rơi vào giấc ngủ, thế nhưng diễn tiến của quá trình xảy ra quá nhanh khiến ta không nhận thấy được. Những người bình thường không thể tạo ra [một cách giả tạo] các giai đoạn trong quá trình của cái chết vì chúng chỉ có thể thực sự xảy ra khi chết, chỉ có những người tu tập Tantra mới có thể tạo ra các giai đoạn tương tự như thế để sử dụng vào việc tu tập.

Phép tu tập Tantra dựa trên những nguyên tắc nào?

Trước hết nên hiểu rằng thân xác ta hàm chứa nhiều kinh mạch dùng để vận chuyển "khí". Trong trường hợp bình thường các loại "khí" vận chuyển thường xuyên trong hệ thống kinh mạch hai bên [phải và trái]. Khi nào "khí" vẫn tiếp tục lưu hành thông suốt trong các kinh mạch hai bên, chúng sẽ không di chuyển vào kinh mạch trung tâm. Thật ra kinh mạch trung tâm lúc nào cũng bị khép kín và các "khí" luân chuyển trong cơ thể đều là các loại "khí" thô thiển. "Khí" là các cơ sở chống đỡ giữ vai trò chuyển tải các khái niệm, các cảm nhận thô thiển.

Tu tập Tantra là cách chặn đứng sự luân chuyển của các loại "khí" thô thiển, tức là các cảm nhận thô thiển. Khi sự luân chuyển của các "khí" thô thiển bị chặn đứng, kinh mạch trung tâm sẽ được giải tỏa, "khí" sẽ tràn vào đó. "Khí" di chuyển vào kinh mạch trung tâm là loại "khí" vô cùng tinh tế giúp cho tâm thức cực tinh tế có thể vận hành. Đối với những người bình thường, tâm thức và "khí" thật tinh tế chỉ phát hiện và vận hành khi nào cái chết xảy ra vì chỉ vào lúc đó các loại "khí" và các cảm nhận thô thiển và tinh tế [nhưng chưa phải là cực tinh tế] đã hoàn toàn bị hóa giải.

Tu tập Tantra là hình dung ra quá trình của cái chết trong mục đích hóa giải các loại "khí" và các cảm nhận thô thiển tạo điều kiện cho "khí" và tâm thức cực tinh tế phát hiện để sử dụng chúng trong việc tu tập. Vì thế, tất nhiên khi mới bắt đầu tu tập phải cố gắng tạo ra quá trình của cái chết [điều kiện cần thiết]. Lúc mới tập rất khó thành công, thế nhưng dần dần nhờ cố gắng ta sẽ hóa giải được các "khí" và các cảm nhận thô thiển và sử dụng được tâm thức và "khí" thật tinh tế.

Trong cuộc sống thường nhật, nếu ta có thể làm phát hiện được tâm thức và "khí" thật tinh tế để sử dụng trong việc quán nhận tánh không, và nhất là khi tâm thức trực tiếp nắm bắt được bản chất vô ngã [của mọi hiện tượng] khi đó chắc chắn ta sẽ đạt được thể dạng của một vị Phật ngay trong kiếp nhân sinh này. Khi đã thành Phật, đương nhiên ta vượt khỏi cái chết và thể dạng trung gian.

Trong cuộc sống nếu ta đủ khả năng sử dụng tâm thức thật tinh tế, tuy không quán nhận được tính không một cách trực tiếp đi nữa mà chỉ hiểu được một cách gián tiếp (qua trung gian một hình ảnh tâm thần), chắc chắn đến khi xảy ra quá trình của cái chết ta sẽ quán nhận trực tiếp được tính không trong giai đoạn ánh sáng trong suốt để trực tiếp trở thành một vị Phật không chuyển sang giai đoạn trung gian [tức là trước khi chuyển sang giai đoạn bardo, vì giai đoạn bardo hay trung gian là giai đoạn chuẩn bị cho sự tái sinh].

Trong cuộc sống, nếu ta không đủ khả năng hiểu được thế nào là tính không dù là gián tiếp đi nữa, ta vẫn có thêm một dịp may thứ hai như tôi đã trình bày hôm qua: đấy là cách hoán chuyển các giai đoạn của cái chết và thể dạng trung gian trở thành con đường tu tập, giúp ta tái sinh trong những điều kiện thuận lợi, mang một cơ sở [thân xác] thích nghi để tiếp tục tu tập Tantra trong kiếp sau.

Tâm thức cực tinh tế hàm chứa một sức mạnh rất lớn, thế nhưng muốn khai thác sức mạnh đó cần phải có một căn bản. Muốn tạo cho mình căn bản ấy phải thực hiện hai điều kiện: thứ nhất là sự hiểu biết tính không, thứ hai là phát huy tâm thức giác ngộ.

Thực ra, nếu biết sử dụng tâm thức thật tinh tế nhưng thiếu một tâm thức giác ngộ, việc thiền định sẽ không thể tạo ra nguyên nhân mang lại thể dạng của một vị Phật; vì thế tâm thức giác ngộ thật vô cùng cần thiết. Mặt khác nếu không đủ sức nắm bắt được tánh không, các hành động và tư duy dù phát hiện từ một tâm thức thật tinh tế cũng sẽ không hội đủ khả năng tạo ra nguyên nhân đưa đến giải thoát.

Đối với cái chết, quý vị nên nhớ lại những gì đã được trình bày ngày hôm qua. Trong mỗi giai đoạn tan biến đều phát sinh nhiều dấu hiệu bên ngoài và một dấu hiệu bên trong. Nếu có quý vị không thể nhớ hết các dấu hiệu bên ngoài ít ra cũng phải nhớ được dấu hiệu bên trong.

Khi thiền định về quá trình của cái chết, phải tự nhủ trong tâm thành phần "đất" tan biến vào thành phần "nước", sau đó thành phần "nước" tan biến vào thành phần "lửa". Thí dụ khi ta quán tưởng đến thành phần "nước" tan biến vào thành phần "lửa" ta phải nhớ ngay dấu hiệu bên trong là gì, và trước đó khi thể dạng "đất" tan biến vào thể dạng "nước" dấu hiệu bên trong phát sinh ra sao, và khi thành phần "lửa" tan biến vào thành phần "khí" dấu hiệu bên trong nào sẽ sắp phát sinh. Tiếp tục theo dõi như thế để biết giai đoạn nào đang xảy ra, giai đoạn nào vừa mới xảy ra trước đó và giai đoạn nào sắp sửa xảy ra. Phải ghi nhớ nằm lòng các dấu hiệu của tất cả các giai đoạn để chuẩn bị cái chết của mình xảy ra sau này.

Trong cuộc sống thường nhật nếu biết thường xuyên nghĩ đến phép tập luyện như trên đây ta sẽ quen dần và nhớ từng chi tiết, khi cái chết thật sự xảy đến ta sẽ nhớ lại dễ dàng các dấu hiệu và các giai đoạn của quá trình cái chết. Nếu không chuẩn bị và tập luyện cho quen, cái chết gần kề làm ta kinh hoàng và không còn làm gì được nữa.

Hôm qua tôi có trình bày về các hiện tượng tan biến đầu tiên: tức là sự tan biến tuần tự của bốn thành phần, hết thành phần này đến thành phần khác, sau đó là các sự tan biến của thể dạng "bên ngoài", "thăng tiến" và "gần thu đạt được". Chúng ta nhận thấy trong khi các thành phần tan biến các cấp bậc cảm nhận cũng tan biến theo, chẳng hạn như sự tan biến của tám mươi khái niệm nhận biết vào lúc xảy ra thể dạng bên ngoài. Các cảm nhận tan biến cùng lúc với các thành phần và tám mươi khái niệm nhận biết là các cảm nhận thuộc loại thô thiển. Đấy là những gì mà ta gọi là tình thương, lòng từ bi, sự giận dữ, ganh tị, v.v..., tất cả các thứ ấy đều thuộc vào các khái niệm nhận biết thô thiển.

Các cảm nhận thuộc các thể dạng bên ngoài, sự thăng tiến và gần thu đạt được là các cảm nhận thuộc loại tinh tế. Thế nhưng dù tất cả đều là tinh tế nhưng vẫn được phân biệt thành nhiều cấp bậc khác nhau. Thí dụ sự tinh tế của thể dạng bên ngoài thô thiển hơn so với sự tinh thế của thể dạng thăng tiến, tính cách tinh tế tăng thêm nữa đối với thể dạng gần thu đạt được. Các loại cảm nhận rất phức tạp và gồm nhiều thể loại không thể trình bày hết được vì sẽ đòi hỏi rất nhiều thì giờ.

Tôi chỉ xin xác nhận thêm khi nói đến tâm thức thô thiển và tâm thức tinh tế không nên hiểu theo cách định nghĩa của kinh sách Sutra, bởi vì kinh sách Tantra và Sutra định nghĩa khác nhau về "tâm thức thô thiển" và "tâm thức tinh tế":

- Theo kinh sách Sutra, các cảm nhận do giác cảm là các cảm nhận thô thiển, các cảm nhận mang tính cách tâm thần là các cảm nhận tinh tế.

- Theo kinh sách Tantra thì khác hơn. Người ta phân chia sự nhận thức thành tám mươi khái niệm cảm nhận [nhận thức] thô thiển, trong đó gồm chung cả hai loại cảm nhận: tức cảm nhận do giác cảm và cảm nhận do tâm thần.

Tôi có thể kể ra đây tám mươi thứ cảm nhận đó, thế nhưng sẽ mất nhiều thì giờ vì quá phức tạp. Chỉ cần có một ý niệm thật tổng quát cũng đủ. Tám mươi cảm nhận được phân chia thành ba nhóm:

- Ba mươi ba cảm nhận tượng trưng hay tiêu biểu cho thể dạng bên ngoài,

- Bốn mươi cảm nhận tiêu biểu cho sự thăng tiến,

- Bảy cảm nhận tiêu biểu cho thể dạng gần thu đạt được.

Thế nhưng cũng nên nhớ rằng bên ngoài, thăng tiến và gần thu đạt được là những cảm nhận tinh tế, trong khi đó tám mươi cảm nhận là các cảm nhận thô thiển. Điều đó cũng cho thấy ba mươi ba cảm nhận và thể dạng bên ngoài mà chúng tượng trưng không có cùng bản chất, vì ba mươi ba cảm nhận thuộc cấp bậc thô thiển và thể dạng bên ngoài thì tinh tế. Thế nhưng tại sao lại gọi ba mươi ba cảm nhận tiêu biểu cho thể dạng cảm nhận bên ngoài? Bởi vì điều đó muốn nêu lên sự kiện nhờ vào ba mươi ba cảm nhận [thô thiển thông thường] mà người ta hình dung được thế nào là thể dạng bên ngoài [tức là một thể dạng tinh tế trong quá trình của cái chết]

Chúng ta không thể giải thích chi tiết hơn về các sự cảm nhận và các thể loại cảm nhận. Đến đây phải dừng lại, vì nếu muốn đi xa hơn phải được khai tâm và thọ pháp [có nghĩa là cần có một căn bản vững chắc hơn để hiểu].

Chúng ta vừa trình bày về tám mươi thứ khái niệm, đó là các cảm nhận (hay nhận thức) thô thiển, sau đó là các thể dạng bên ngoài, sự thăng tiến và gần thu đạt được tượng trưng cho các cảm nhận tinh tế.

Phần còn lại cần giải thích thêm là ánh sáng trong suốt của cái chết. Đấy chính là tâm thức cực tinh tế. Không có sự cảm nhận hay nhận thức nào tinh tế hơn. Vào giai đoạn khi ánh sáng trong suốt của cái chết phát hiện, tâm thức cực tinh tế và "khí" cực tinh tế cũng phát hiện theo. "Khí" thuộc vào thể loại hình tướng và đồng thời cũng là thể loại hình tướng tinh tế hơn hết.

Hôm qua chúng ta dừng lại sau khi giải thích xong thế nào là ánh sáng trong suốt. Thể dạng ánh sáng đó hiển hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn hay có thể kéo dài hơn, đối với người bình thường thời gian này thông thường là ba ngày. Ánh sáng trong suốt sẽ tiếp tục hiển hiện khi nào tâm thức cực tinh tế còn bị khóa chặt bởi giọt trắng bên trên và giọt đỏ bên dưới. Khi giai đoạn của ánh sáng trong suốt chấm dứt hai giọt sẽ tách rời nhau, giọt đỏ di chuyển ngược lên phía trên và thoát ra ngoài bằng bằng hai lỗ mũi. Giọt trắng di chuyển xuống phía dưới và thoát ra ngoài từ bên dưới cơ thể [cơ quan sinh dục]. Vào thời điểm chính xác đó [khi hai giọt tách rời nhau] tâm thức cực tinh tế sẽ vĩnh viễn rời khỏi thân xác và tức khắc sau đó cá thể chuyển vào thể dạng trung gian hay bardo [quá trình của giai đoạn chết chấm dứt].

Đến đây chúng ta sẽ chuyển sang phần trình bày về bardo hay thể dạng trung gian. Thế nhưng rất có thể quý vị còn thắc mắc về những gì vừa được trình bày, vậy xin cứ nêu lên các câu hỏi.

Một thính giả: Người ta có cảm giác ra sao trong giai đoạn ánh sáng trong suốt?

Rinpoche: Không êm ái cũng không khó chịu [thật ra êm ái hay khó chịu đều thuộc các loại nhận thức thô thiển, sự nhận thức tinh tế thuộc các thể dạng bên ngoài, thăng tiến, gần thu đạt được và ánh sáng trong suốt thuộc thể loại tinh tế do đó vượt lên trên các thể dạng này], thể dạng ánh sáng trong suốt mang tính cách trung hòa. Cũng như tất cả mọi thứ cảm nhận khác, ánh sáng trong suốt hàm chứa yếu tố cùng khắp của sự cảm nhận, sự cảm nhận phát sinh vào giai đoạn này mang tính cách trung hòa, bởi vì các cảm nhận êm ái hay khó chịu đều là các cảm nhận thô thiển.

Một thính giả: Thế nhưng tôi từng được nghe giải thích là các người bình thường khi cảm nhận ánh sáng trong suốt họ không hiểu đấy là sự cảm nhận của tính không khiến họ sợ hãi, họ cảm thấy hiện tượng đó tương tự như một sự hủy diệt khiến họ kinh hãi.

Rinpoche: Sự sợ sệt có thể xảy ra trước đó, không thể thuộc vào giai đoạn ánh sáng trong suốt. Thực ra sự sợ hãi không phải là một thể loại cảm nhận. Người ta có thể lo sợ vì có cảm giác như cái tôi biến mất, cái tôi không còn nữa; thế nhưng tôi tin rằng cái sợ đó xảy ra trước khi phát hiện ánh sáng trong suốt, [như vừa được giải thích trên đây, sự sợ hãi là một thể loại cảm nhận thô thiển không còn tồn tại trong thể dạng cực tinh tế của ánh sáng trong suốt].

Một thính giả: Thưa ngài, ngài có nói là quá trình được trình bày cũng xảy ra khi rơi vào giấc ngủ, thế nhưng quá trình đó [trong giấc ngủ] dừng lại ở cấp bậc nào, bởi vì quá trình đó [theo như tôi hiểu] không đạt được thể dạng ánh sáng trong suốt của cái chết?

Rinpoche: Trên thực tế đấy không đúng là ánh sáng trong suốt của cái chết mà chỉ là ánh sáng trong suốt của giấc ngủ. Dù sao cũng rất ngắn nên không thể nhận biết được.

Một thính giả: Ánh sáng trong suốt có thể phát hiện trong tình trạng khi đang tỉnh hay không?

Rinpoche: Người ta có thể tạo ra một thứ gì đó một thể dạng nào đó rất gần với ánh sáng trong suốt nhờ vào phép thiền định, ngoài thiền định ra không có kỹ thuật nào khác. Cũng cần xác định thêm ánh sáng trong suốt của giấc ngủ theo định nghĩa chỉ có thể xảy ra khi ta khởi sự ngủ, nhưng không thể xảy ra khi thức.

Một thính giả: Có lúc ngài dùng chữ nhận thức hàm chứa một ý niệm (perception significative - revealing or significant perception) [sự nhận thức hàm chứa một ý nghĩa], đôi khi ngài lại nói là khái niệm hàm chứa một ý nghĩa (conception significative - revealing conception)?

Rinpoche: Đúng ra đấy là hai từ thông dịch. Nguyên gốc tiếng Tây tạng là kun tog (kun rtog). Tog có nghĩa là "nhận thức gián tiếp" (perception indirecte - indirect perception) vì thế sự nhận thức đó mang tính cách khái niệm vì phải nhờ vào một hình ảnh tâm thần. Vì lý do đó khi dịch chữ này một cách từ chương sẽ là "conception significative". Thế nhưng, tám mươi cảm nhận bao hàm cả hai thể loại cảm nhận: giác cảm vừa tâm thần, vì thế cũng nên thận trọng không nên quá chú trọng đến ý nghĩa của chữ "khái niệm" (conception).

Một thính giả: Trên phương diện tổng quát, từ kun tog chỉ định một khái niệm, một sự cảm nhận gián tiếp xuyên qua hình ảnh tâm thần. Thế nhưng tám mươi kun tog trong trường hợp này bao gồm cả các cảm nhận giác cảm tức là những cảm nhận trực tiếp. Vậy kun tog được sử dụng trong trường hợp này mang ý nghĩa bao quát hơn ý nghĩa nguyên thủy của nó?

Rinpoche: Vừa rồi tôi có nêu lên sự kiện kinh sách Sutra xem các cảm nhận giác cảm thuộc thể loại thô thiển và các cảm nhận tâm thần thuộc thể loại tinh tế. Thế nhưng kinh sách Tantra đưa ra các tiêu chuẩn khác hơn, dựa vào "khí" như một cơ sở chuyển tải tâm thức, khí sở dĩ đảm trách được vai trò chuyển tải là nhờ vào sự linh động của nó. "Khí" càng linh động càng thô thiển. Các cảm nhận đi kèm với "khí" [được khí chuyển tải] chuyển động không ngừng, do đó chúng là những sự cảm nhận thô thiển. Đối với các cảm nhận tinh tế, "khí" vẫn ở trong tình trạng linh động nhưng yên tĩnh hơn nhiều. Cách giải thích dựa vào chức năng của "khí", tức sự linh động của "khí" chỉ được đề cập trong kinh sách Tan-tra. Kinh sách Sutra không hề nêu lên hiện tượng này và cũng không chấp nhận cách giải thích trên đây của kinh sách Tantra.

Tuy rằng có rất nhiều điểm và nhiều cách giải thích giống nhau hoặc tương tự nhau giữa kinh sách Sutra và Tantra, thế nhưng cũng có nhiều điểm đặc thù cho mỗi loại kinh sách. Hãy nêu lên một thí dụ, theo kinh sách Sutra cội nguồn của ta bà là sự nắm bắt cái tôi tự tại, thế nhưng theo kinh sách Tantra cội rễ của ta bà là "khí" sử dụng như một cơ sở hay môt phương tiện chuyển tải sự nắm bắt cái tôi tự tại. Tóm lại Sutra chỉ nói đến các cảm nhận [các cảm nhận sai lầm về các hiện tượng là cội rễ của ta bà], trong khi đó kinh sách Tantra vừa sử dụng các cảm nhận và cả "khí" chuyển tải các cảm nhận để chỉ định cội rễ của ta bà. Kinh sách Tantra còn xác định thêm nếu sự nắm bắt cái ngã tự tại có thể xảy ra ấy là nhờ vào sự linh động của "khí" giữ vai trò chuyển tải sự cảm nhận [tức là sự cảm nhận sai lầm của sự nắm bắt cái ngã tự tại chỉ có thể xảy ra được là nhờ sự linh động của khí chuyển tải các cảm nhận ấy]. Nếu ta tìm cách làm cho "khí" chuyển tải sự nắm bắt cái ngã tự tại trở nên bất động, sự nắm bắt đó sẽ không thể xảy ra được [đấy cũng là một trong những kỹ thuật trong phép tu tập Tantra].

Có một phương pháp tu tập làm tan biến tất cả các "khí" thô thiển thường xuyên luân chuyển trong cơ thể, đấy là cách gom chúng vào vị trí của ngực. Khi tất cả các loại "khí" thô thiển bị dồn hết vào trung tâm của ngực, chúng sẽ mất hết khả năng tác động. Chỉ còn lại "khí" thật tinh tế vận hành trong cơ thể.

Trong giai đoạn ánh sáng trong suốt, tâm thức và "khí" cực tinh tế bị ép chặt giữa hai giọt đỏ và trắng. Khi hai giọt này tách rời nhau, tâm thức cực tinh tế và "khí" cực tinh tế rời khỏi thân xác người chết và đồng thời cá thể chuyển sang thể dạng trung gian.

Thể dạng trung gian hay bardo

Sinh linh trong thể dạng trung gian gọi là bardowa [kinh sách Hán ngữ gọi là thân trung hữu], tâm thức cực tinh tế trực tiếp tác tạo ra tâm thức của sinh linh bardowa [sự tiếp nối liên tục của tri thức], "khí" cực tinh tế chỉ góp phần gián tiếp vào sự tạo tác tâm thức. Thế nhưng nó lại là nguyên nhân trực tiếp tác tạo ra "thân xác" của sinh linh này.

Khi giai đoạn ánh sáng trong suốt của cái chết chấm dứt, cá thể chuyển sang thể dạng bardo và trở thành sinh linh của bardo gọi là bardowa. Sinh linh này mang thân xác tinh tế tạo ra bởi "khí" tinh tế. Sinh linh bardowa đạt được tâm thức cực tinh tế và thân xác cực tinh tế trong cùng một lúc.

Trong thể dạng bardo quá trình mô tả trước đây [quá trình của cái chết] sẽ lặp lại, thế nhưng quá trình đó xảy ra theo chiều đảo ngược. Có nghĩa là quá trình đó khởi sự bằng thể dạng tâm thức của sinh linh bardowa tức là thể dạng gần thu đạt được; tiếp theo đó là thể dạng thăng tiến, thể dạng bên ngoài, tám mươi khái niệm cảm nhận hàm chứa một ý niệm, v.v...

Khi tám mươi khái niệm cảm nhận phát hiện, sinh linh bardowa bắt đầu có những sự nhận biết thô thiển và đồng thời cũng mang sự sống trong thể dạng của một sinh linh bardowa: nó tự nuôi dưỡng bằng mùi, rất linh động và có khả năng di chuyển. Điểm đặc thù của sinh linh bardowa là thân xác được hình thành một cách đột biến từ "khí" tinh tế. Tức khắc sau khi được hình thành thân xác của sinh linh bardowa hàm chứa đầy đủ các khả năng chẳng hạn như sáu loại giác cảm tức sáu giác quan và khả năng di chuyển không bị một chướng ngại nào ngăn chặn, [các khả năng này chỉ có thể phát triển từ từ và từng giai đoạn một nơi thân xác một hài nhi].

Sinh linh trong thể dạng bardo còn gọi là "sambhogakaya căn bản" hay "thụ dụng thân căn bản".

Thể dạng trung gian sẽ kéo dài trong bao lâu? Không có gì rõ rệt cả. Nếu các điều kiện tái sinh thuận lợi, thời gian sinh linh bardowa lưu lại trong thể dạng trung gian sẽ rất ngắn, trong trường hợp này sau khi vừa ra khỏi ánh sáng trong suốt của cái chết cá thể tức khắc chuyển sang thể dạng bardo và ngay sau đó chuyển sang thể dạng tái sinh [thụ thai]. Thế nhưng nếu các điều kiện thuận lợi không hội đủ, sinh linh bardowa phải lưu lại trong thể dạng trung gian trong bảy ngày, hết bảy ngày lại "chết" thêm một lần nữa để quay trở về thể dạng sinh linh bardowa như trước. Sự kiện này có thể lập đi lập lại tối đa bảy lần, tức bốn mươi chín ngày tất cả, đấy là thời gian tối đa sinh linh bardowa có thể lưu lại trong thể dạng trung gian.

Khi sinh linh bardowa chết, quá trình của cái chết lập lại như trước và sau khi đã trở lại thể dạng bardo quá trình sẽ diễn tiến đảo ngược lại.

Có thể xảy ra trường hợp sinh linh bardowa nhìn thấy thân xác mà mình vừa rời khỏi tức xác chết của cá thể [thây ma của người đã chết], thế nhưng vì tâm thức đã hoàn toàn rời khỏi thân xác nên sinh linh bardowa không có một phản ứng nào cả đối với thân xác đó.

Người ta cho rằng thể dạng bardo trải qua từng giai đoạn và mỗi giai đoạn kéo dài bảy ngày. Thế nhưng ý nghĩa của "ngày" như thế nào? Ngày trong thể dạng bardo cũng giống với ngày trong thế giới con người.

Sinh linh bardowa mang hình dáng ra sao? Nó mang hình dáng tương tự với cá thể mà nó sắp tái sinh.

Sinh linh bardowa mang màu sắc như thế nào? Nếu tái sinh trong các điều kiện không tốt lành nó sẽ mang màu đen; nếu tái sinh trong các điều kiện thuận lợi nó sẽ mang màu trắng.

Những người bình thường không thể nhìn thấy các sinh linh trong thể dạng bardo, thế nhưng giữa các sinh linh bardowa với nhau có thể nhận ra nhau. Một số người nhờ khả năng sáng suốt có thể nhận ra các sinh linh bardowa.

Vì lý do thân xác của các sinh linh bardowa được cấu tạo bằng "khí" và giữ vai trò chuyển tải tâm thức, vì thế mỗi khi tâm thức nghĩ đến một nơi nào đó tức thời thân xác cũng hiện ra nơi đó. Sinh linh bardowa không cần "ra sức" như chúng ta trong việc di chuyển, thân xác bardowa di chuyển nhanh như tốc độ của tư tưởng. Vì thế cuộc sống của của sinh linh bardowa không bao giờ được êm ả, trái lại có thể nói là rất dao động. Sinh linh đó tới lui không ngừng với mục đích tìm kiếm một nơi thuận lợi để tái sinh, [tâm thức luôn luôn biến động do đó sinh linh bardowa cũng luôn luôn biến động theo].

Những gì tôi vừa trình bày liên quan đến những người bình thường không hề biết tu tập. Vậy những gì xảy ra đối với những người biết lợi dụng thể dạng đó như một phép tu tập? Thay vì trở thành một sinh linh bardowa trong thể dạng trung gian, người tu tập trực tiếp biến thành vị thần linh phù trợ mình. Thay vì chạy ngược chạy xuôi để tìm một hoàn cảnh thích hợp cho việc tái sinh họ biết thiền định và chờ đợi khi nào các điều kiện thuận lợi hội đủ tại một nơi nào đó, họ sẽ nhân đấy tái sinh không cần bôn ba tìm kiếm, [người luyện tập thiền định biết giữ cho tâm thức yên lặng].

Tùy theo nghiệp tích lũy, nếu có quá nhiều nghiệp tiêu cực ta có thể gặp nhiều chuyện khiếp đảm hiển hiện trong giai đoạn bardo, bởi vì mọi thứ thể dạng bên ngoài còn có thể hiển hiện. Nếu tích lũy được nhiều nghiệp tích cực thể dạng bardo sẽ không đến nỗi kinh khiếp như thế. Dù sao đi nữa tất cả mọi hiển hiện trong thể dạng trung gian chỉ đơn thuần là các tạo tác tâm thần. Nếu là người tu tập thuần thục sẽ đủ sức thiền định về tính không trước những sự hiển hiện ấy tức quán nhận thấy chúng không hiện hữu một cách nội tại và tuyệt đối, chúng chỉ đơn thuần là những khái niệm, những tạo tác tâm thần không hơn không kém.

Tất cả chúng sinh khi chết có phải bắt buộc trải qua thể dạng trung gian như trên đây hay không? Không nhất thiết vì còn tùy thuộc vào thể loại tái sinh của mình. Các cá thể sẽ tái sinh trong cõi vô hình tướng không trải qua thể dạng bardo. Bardo chỉ xảy ra đối với các sinh linh tái sinh trong các cõi tham dục và hình tướng.

Khi ánh sáng trong suốt của cái chết chấm dứt, các sinh linh tái sinh trong cõi vô hình tướng tức khắc hiển hiện trở lại dưới thể dạng các thần linh trong thế giới vô hình tướng, đó là nhờ vào sức mạnh của samadhi [định] tức sức tập trung, bởi vì điểm đặc thù của các sinh linh trong thế giới vô hình tướng là lắng ngay vào thể dạng samadhi. Họ không trải qua quá trình diễn biến thông thường, không chuyển sang các thể dạng gần thu đạt được, thăng tiến v.v...

Hãy lấy thí dụ cái chết xảy ra cho một sinh linh nào đó, sinh linh này chuyển vào giai đoạn trung gian, vì tác động của nghiệp tiêu cực quá mạnh khiến sinh linh bardowa mang hình tướng một con thú và trên nguyên tắc sẽ tái sinh thành một con thú. Vậy sinh linh này còn có thể biến cải hoàn cảnh của mình trong thể dạng trung gian để thay đổi phần số của mình hay không? Có thể trả lời là có, một sự chuyển hướng có thể xảy ra được.

Quý vị có câu hỏi nào nêu lên hay chăng?

Một thính giả: Tôi muốn hỏi ngài về vấn đề vừa được nêu lên, tức chuyển hướng sự tái sinh trong giai đoạn trung gian. Sự chuyển hướng đó nhờ vào đâu? Có thể nhờ vào sự tụng niệm của người còn sống và các bài kinh tụng niệm nào đó hay không?

Rinpoche: Trên thực tế sự chuyển hướng có thể thực hiện được trong giai đoạn bardo. Thí dụ một sinh linh mang quá nhiều nghiệp tiêu cực trên nguyên tắc sẽ phải tái sinh vào các cõi địa ngục. Thế nhưng nếu có một người thân thiết với sinh linh bardowa hồi hướng tất cả những gì đạo hạnh và xứng đáng của họ cho sinh linh bardowa có thể giúp sinh linh này chuyển hướng được sự tái sinh của mình.

Một thính giả: Tôi muốn biết các "khí" tinh tế và thô thiển có đúng là thuộc vào cấu hợp hình tướng hay không hay là một cấu hợp khác?

Rinpoche: Đúng như thế. Theo Tantra thừa các loại "khí" thuộc cấu hợp hình tướng trong các cấp bậc tinh tế.

Một thính giả: Các sinh linh bardowa có thể nhận ra nhau và trao đổi [liên lạc, giao thiệp] với nhau hay không?

Rinpoche: Các sinh linh có thể nhận ra nhau vì trên nguyên tắc các sinh linh cùng một thể loại có thể nhận ra nhau. Họ có thể trao đổi [đàm thoại] với nhau hay không thật khó trả lời, vì chính tôi chưa bao giờ trao đổi với một sinh linh bardowa [câu này có thể hiểu ngầm là Dagpo Rinpoche từng tiếp xúc với các sinh linh bardowa, thế nhưng giữa hai bên không có sự trao đổi nào xảy ra (?)], kinh sách cũng không đề cập đến trường hợp đặc biệt này. Rất có thể họ có trao đổi với nhau, thế nhưng nhất định không phải bằng tiếng nói [tất nhiên là như thế vì tiếng nói hoàn toàn là các khái niệm quy ước và thuộc thể loại thô thiển]. Bằng phương tiện nào? Thật không thể biết rõ.

Một thính giả: Ngài giải thích thế nào về nguồn gốc của cõi hình tướng?

Rinpoche: Người ta cho biết có nhiều cõi hiện hữu, trong đó có cõi hình tướng. Cõi hình tướng phát sinh bởi sức mạnh của các nghiệp tương tự nhau, tích lũy bởi các chúng sinh sẽ cùng sống chung với nhau trong một số điều kiện hiện hữu nào đó. Bởi vì bạn nêu lên câu hỏi liên quan đến nguyên nhân tạo ra cõi hình tướng nên phải trả lời nguyên nhân ấy là các nghiệp hướng một số các sự tái sinh nào đó chung vào một cõi với các điều kiện phù hợp với các nghiệp ấy. Nói một cách khác các nghiệp tương tự nhau làm phát sinh ra một cõi chung phù hợp với các sinh linh mang các nghiệp ấy. Các loại nghiệp hướng vào sự tái sinh trong cõi hình tướng không nhất thiết bắt buộc phải liên hệ mật thiết với các sinh linh hiện đang sống trong cõi ấy nhưng đúng hơn là tùy thuộc vào nghiệp ghi khắc trên dòng tiếp nối của bất cứ một sinh linh nào sẽ tái sinh trong trong cõi hình tướng, [các sinh linh đang sống trong cõi hình tướng là kết quả phát sinh từ nghiệp của họ trong quá khứ, các sinh linh này không đương nhiên và tự động tái sinh trở lại trong cõi hình tướng mà có thể tái sinh trong một cõi cao hơn hay thấp hơn. Trái lại các sinh linh sống trong các cõi khác tùy vào nghiệp mà họ đang hoặc sẽ tạo ra cho họ sẽ có thể phải tái sinh vào cõi hình tướng].

Một thính giả: Làm thế nào một sinh linh bardowa biết được mình sẽ tái sinh trong các điều kiện sẽ thích hợp với mình để chọn lựa, chẳng hạn như thể dạng súc vật, hay bất cứ một thể dạng nào khác?

Rinpoche: Không thể dùng các thuật ngữ như "biết được" hay "thích hợp" vì không đúng nghĩa. Sinh linh bardowa không thể chọn lựa sự tái sinh theo ý muốn của mình mà đúng hơn bị lôi cuốn bởi sức mạnh của nghiệp. Xung năng của nghiệp kích động và xui khiến các sinh linh bardowa tìm đến cha mẹ tương lai của mình.

Một thính giả: Như thế nhất định không có sự chọn lựa? Một sinh linh bardowa không có khả năng chọn lựa? Thế nhưng tại sao các vị tulku lại có thể chọn lựa?

Rinpoche: Bất cứ một nguyên tắc nào cũng có ngoại lệ, có những trường hợp đặc biệt xảy ra. Đây cũng là một dịp nhắc nhở chúng ta phải cảnh giác. Bạn nêu lên trường hợp các vị tulku [hóa thân], thế nhưng không phải vị tulku nào cũng có quyền lựa chọn sự tái sinh của mình trong tương lai. Tất cả còn tùy thuộc vào trình độ tu tập của họ. Muốn chủ động hoàn toàn sự tái sinh của mình phải đạt được sự tự do quyết định sẽ tái sinh hay không. Khi nào chưa đạt được sự tự do chọn lựa đó ta chỉ có thể nguyện cầu hay thệ nguyện hy vọng thực hiện được sở nguyện của mình, [thí dụ người bồ tát thệ nguyện tái sinh vào cõi luân hồi để giúp đỡ chúng sinh, hay một người tu hành cầu mong thoát khỏi thế giới ta bà].

Một thính giả: Một cách tổng quát có phải người ta thường tái sinh vào một nơi gần với nơi mình sinh sống trong kiếp trước hay không? Có thể xảy ra trường hợp tái sinh trong một "nước" khác hay không?

Rinpoche: Không có gì trói buộc, có thể tái sinh rất gần nhưng cũng có thể rất xa.

Một thính giả: Thế nhưng vì ảnh hưởng phát sinh từ các cảm nhận quen thuộc trong quá khứ cho nên...

Rinpoche: Tùy thuộc vào nghiệp tích lũy trong quá khứ thì đúng hơn.

Một thính giả: Đối với một người bình thường, khi đã nhập vào giai đoạn bardo họ còn có thể tu tập được không, hoặc ít ra cũng có thể tìm lại các vị Thầy [trong kiếp trước] của mình và biết được Đạo Pháp trong kiếp tái sinh? Một người bình thường có thể tu tập trong giai đoạn bardo giúp họ cải thiện sự quán thấy của họ trong kiếp tái sinh hay không?

Rinpoche: Còn tùy thuộc vào việc tu tập trong kiếp trước. Nếu một cá thể chuyên cần tu tập khi còn sống, đến khi chuyển vào thể dạng bardo thói quen tu tập trước đây của họ sẽ hiển hiện trở lại trong tâm thức. Thí dụ trước đây cá thể ấy từng thiền định về lòng từ bi, tình thương và lòng tin tưởng, thói quen sẽ phát hiện trở lại với cá thể ấy khi xảy ra thể dạng trung gian và nhất định sẽ mang lại kết quả tốt cho họ. Thế nhưng chỉ có những người tu tập Tantra cao thâm hoặc những người đã đạt được sự hiểu biết tính không mới có thể thiền định hoặc tu tập trong thể dạng trung gian để mang lại các điều kiện thuận lợi cho sự tái sinh của mình.

Một thính giả: Tôi rất ái ngại khi nghĩ đến các cá thể phải tái sinh dưới thể dạng súc vật. Đấy có phải là một sự trừng phạt hay không? Có cơ duyên biến cải nào đối với các chúng sinh dưới thể dạng súc vật hay không? Có chúng sinh nào xả thân vì chúng để giúp đỡ chúng biến cải và vượt lên các cấp bậc cao hơn hay không?

Rinpoche: Tái sinh dưới thể dạng súc vật không phải là một sự trừng phạt, dù bất cứ dưới hình thức nào! Đấy chỉ là hậu quả của một số nghiệp nào đó đưa đến sự tái sinh cá biệt như thế. [đây là một câu giải thích rất đúng, ra rất hay và đồng thời cũng rất quan trọng. Tái sinh trong một thể dạng "thấp hơn" (trong trường hợp của giới súc vật chẳng hạn) không phải là một sự trừng phạt, sự trừng phạt hay cõi thấp kém chỉ là sự diễn đạt của tâm thức con người, không phải là cách "hình dung" hay "mô tả" hiện thực một cách khách quan]. Vì thế một con thú sau khi chết, nghiệp tác động (karma introducteur) có thể hướng nó vào một sự tái sinh thuận lợi hơn, chẳng hạn như thể dạng con người. Một con vật do đó cũng có thể tái sinh làm người, [về điểm này cũng cần giải thích thêm là con người không hẳn thuộc vào một cấp bậc "đứng lên trên" cấp bậc súc vật, mà chỉ có nghĩa là con người gánh chịu những khổ đau "phức tạp hơn" dưới những "hình thức khác hơn" so với súc vật, và đồng thời con người hàm chứa một số khả năng mà kinh sách gọi là "quý giá" vì nhờ đó con người biết tu tập. Thế nhưng con người cũng biết sử dụng những khả năng "quý giá" đó để gây ra đủ mọi thứ tội ác như sát nhân, xung đột, chiến tranh, biết chế tạo bom đạn... để quay trở lại cõi súc sinh. Xin đưa ra một thí dụ điển hình, tái sinh làm một con chim trên cành chưa hẳn là "khổ hơn" một người điên loạn la hét, chân tay bị cột vào giường trong một nhà thương tâm thần. Đấy chỉ là hai trường hợp liên quan đến hai thứ nghiệp khác nhau không thể so sánh được].

Phần thứ hai của câu hỏi: "Thế có ai cứu giúp và âu lo cho sự an vui của súc vật hay không?" Xin trả lời là có, rất nhiều sinh linh xả thân trong chiều hướng đó và sự giúp đỡ của họ mang lại nhiều kết quả tích cực. Thế nhưng trên nguyên tắc một cá thể phải tự cố gắng để biến cải tình trạng của mình. Cầu nguyện, hồi hướng công đức có thể giúp ích phần nào cho súc vật, thế nhưng chính chúng nắm giữ tất cả các yếu tố cần thiết để tự biến cải. Sự cải thiện đó không thể chờ đợi từ bên ngoài [tiếc thay hầu hết các súc vật không đủ khả năng để ý thức hành động của mình, tóm lại chúng không có được "cơ sở" quý giá của con người]. Dù sao đi nữa phải chờ cho nghiệp mang lại sự tái sinh dưới thể dạng súc vật chấm dứt, [súc vật có thể tích lũy nhiều nghiệp tích cực từ trước, thế nhưng các nghiệp này lại bị các nghiệp tiêu cực lấn át khiến chúng phải tái sinh dưới thể dạng súc vật, khi nào các nghiệp tiêu cực chấm dứt tác động của chúng, các nghiệp tích cực từ trước có thể giúp cho một con thú tái sinh trong một cõi khác].

Một thính giả: Hai thành phần cấu tạo là giọt trắng và giọt đỏ phát sinh từ cha và mẹ có tiếp tục hiện hữu trong thân xác của sinh linh bardowa hay không, khi mà thân xác đó được cấu tạo một cách tự nhiên không cần đến cha mẹ?

Rinpoche: Không, bởi vì giọt đỏ đã thoát ra bằng lỗ mũi và giọt trắng qua cơ quan sinh dục.

Một thính giả: Có sự giao tiếp nào giữa người chết và người còn sống trong những ngày đầu sau khi cái chết có xảy ra hay không? Có thật là người chết đau khổ rất nhiều vì không giao tiếp được với chúng ta? Khi quây quần bên cạnh người chết có gây bực bội cho họ hay ngược lại có thể mang lại sự trấn an cho họ?

Rinpoche: Câu hỏi không được chính xác lắm, còn tùy vào giai đoạn nào trong quá trình của cái chết. Chúng ta đang đề cập đến giai đoạn của sinh linh bardowa, có nghĩa là một sinh linh đã chết thật sự và đang ở trong giai đoạn trung gian, không còn trong giai đoạn diễn biến của cái chết của thể xác bên ngoài. Vậy sinh linh bardowa có còn nhận ra thân thuộc của mình trước kia hay không? Sinh linh bardowa có đau khổ vì không thể giao tiếp với người thân hay không? Trên nguyên tắc là không, sinh linh bardowa cũng không nhận ra các người thân thuộc trước đây kể cả cha mẹ sinh ra mình. Điểm này đã được nhắc đến khi trình bày về thời điểm sinh linh bardowa rời bỏ thân xác, thân xác là những gì gần gũi nhất với nó trước đây thế nhưng nó vẫn không nhận ra. Sinh linh bardowa có thể nhìn thấy xác chết của mình nhưng không ý thức được "đấy là tôi", hay "đấy là thân xác của tôi". Nó không còn giữ một mối liên hệ nào nữa với thân xác mà nó vừa rời bỏ vĩnh viễn. Đấy là lý do giải thích tại sao sinh linh bardowa không còn nhận biết được cha mẹ mình trước đây. Bạn tưởng tượng ra sinh linh bardowa đang đau khổ, v.v. thế nhưng đấy chỉ là các diễn đạt mang tính cách "đại chúng", dựa vào truyền thuyết dân gian, không xuất phát từ các kinh sách triết học.

Một thính giả: Các sinh linh quá quyến luyến với nơi sinh sống trong kiếp trước của mình có tái sinh trở lại những nơi quen thuộc trước đây hay không?

Rinpoche: Một lần nữa tôi phải nói là không thể biết chắc. Có thể thế thôi, không phải là một chuyện đương nhiên.

Một thính giả: Các giọt trắng và đỏ sau khi thoát ra khỏi thân xác sẽ ra sao?

Rinpoche: Nhất định sẽ bị khô queo... Giọt đỏ và giọt trắng chỉ là hình tướng thuộc loại thô thiển.

Một thính giả: Thế nhưng thể dạng bên ngoài thuộc thành phần của thân xác tinh tế...

Rinpoche: Không nên lầm lẫn giữa các khái niệm với nhau. Thể dạng bên ngoài, sự thăng tiến và gần thu đạt được là những cảm nhận, những ý nghĩ. Quả đúng tôi có nói là khi cảm nhận được thể dạng bên ngoài, cá thể có cảm giác nhìn thấy ánh sáng màu trắng và khi xảy ra sự thăng tiến thì nhìn thấy ánh sáng màu đỏ. Thế nhưng không nên lầm lẫn giữa sự cảm nhận và nguyên nhân mang lại sự quán thấy. Giọt đỏ và giọt trắng là những hình tướng vật chất.

Một thính giả: Ngài có nói đến các "khí" là các phương tiện chuyển tải tâm thức hay các cơ sở chống đỡ cho tâm thức tinh tế. Vậy giữa vai trò chuyển tải tâm thức hay chống đỡ tâm thức và "khí" sự liên hệ ra sao? Sự tương liên giữa chúng như thế nào?

Rinpoche: Đối với "khí" hay các loại "khí", người ta tạm gọi chúng là các cơ sở chống đỡ hay các phương tiện chuyển tải tâm thức hay các sự cảm nhận. Vậy cách phát biểu như thế có ý nghĩa như thế nào? Khi phát biểu "khí" là cơ sở chống đỡ cho tâm thức không nên quên đấy là cách diễn đạt theo kinh sách Tantra. Kinh sách Sutra không đề cập đến các vấn đề này. Thế nhưng kinh sách Sutra và cả Tantra đều chấp nhận là phải có tâm thức mới có thể sinh ra cảm nhận, phải có sự phối hợp giữa hai phẩm tính là sự minh bạch và tính cách linh động. Nếu tâm thức không hàm chứa tính cách minh bạch, các đối tượng cảm nhận sẽ không thể phản chiếu và hiển hiện lên được; nếu tâm thức không mang yếu tố linh động sẽ không có khả năng hướng vào các đối tượng.

Muốn hình dung sự tương quan giữa tâm thức và "khí", người ta thường đưa ra thí dụ về hai người khác nhau, một người có đôi mắt thật tinh tường nhưng cụt hai chân không di chuyển được, một người có đôi chân cứng cáp nhưng lại mù. Nếu cả hai hợp tác với nhau sẽ có thể tạo ra hành động. Sự tương quan giữa tâm thức và "khí" cũng tương tự như thế. Tâm thức có thể xem như người có thị giác tốt thế nhưng không di chuyển được. Trong khi đó "khí" mang yếu tố linh động giống như người có đôi chân khỏe nhưng lại mù. Nhờ vào "khí" tâm thức có khả năng di chuyển hướng vào các đối tượng. Chính vì thế người ta gọi "khí" là một phương tiện hay cơ sở chuyển tải tâm thức. Tương tự như lưng ngựa chuyển tải người kỵ mã. Trả lời trên đây có đúng với câu hỏi hay chăng?

Một thính giả: Rất đúng.

Một thính giả: Các giọt giữ một vai trò quan trong khi xảy ra cái chết, thế nhưng trong cuộc sống thường nhật thì sao? Trong cuộc sống nếu não bộ bị chấn thương, các giọt có thể bị mất hay không? Trường hợp đó có thể xảy ra hay không và hậu quả ra sao?

Rinpoche: Tôi nghĩ rằng nếu não bộ bị chấn thương vì tai nạn, nơi vị trí của giọt trắng trên đỉnh đầu bị thương tích, giọt trắng sẽ chuyển đến một vị trí khác trên thân thể. Tuy nhiên trường hợp này không thấy kinh sách nói đến, [đây chỉ là một cách hỏi và trả lời lạc vào chi tiết đưa đến chỗ bế tắc, phải phân biệt giữa những gì mang tính cách tượng trưng và những gì "sờ mó" được]. Tôi tạm đề nghị cách trả lời trên đây vì nhiều người cho rằng không biết được đích xác vị trí của các giọt, các chất liệu ấy có thể phân tán trong cơ thể. Chúng chỉ hội tụ lại trong các vị trí nhất định nào đó vào các thời điểm nhất định. Người ta có thể hình dung trong cuộc sống thường nhật và trong một số trường hợp nào đó một thứ năng lượng đặc biệt hội tụ trên đỉnh đầu, thế nhưng đấy không phải là chất liệu của giọt trắng.

Một thính giả: Ngài mô tả về sự suy yếu tuần tự và toàn bộ của bốn thành phần khi xảy ra cái chết. Thế nhưng trong cuộc sống cũng có thể xảy ra những sự suy yếu không toàn vẹn [bệnh tật và tuổi tác], có thể sử dụng các sự suy yếu ấy để tu tập hay chăng?

Rinpoche: Còn tùy theo cách hiểu câu hỏi của bạn. Tôi thấy có hai cách hiểu khác nhau. Nếu muốn nói đấy là quá trình của giấc ngủ hay của sự giao hợp tính dục quá trình tan biến sẽ tương tự như sự sự suy yếu khả năng của bốn thành phần thân xác khi xảy ra quá trình của cái chết, thế nhưng không thể lợi dụng các quá trình ấy để tu tập vì chúng xảy ra quá nhanh.

Cách hiểu thứ hai là khả năng của các thành phần bị yếu đi vì bệnh tật, trường hợp này chỉ là những thể dạng suy nhược tạm thời phát sinh từ sự mất thăng bằng của các thành phần, vì thế không thể sử dụng vào việc tu tập. Thiết nghĩ cũng nên minh chứng rõ ràng hơn, sự suy yếu của các thành phần vì bệnh tật không thể sử dụng vào việc tu tập theo cách đã được trình bày trong ngày hôm qua, thế nhưng nhất định có thể lợi dụng tình trạng đó để hướng vào các cách tu tập khác. Trong khi ốm đau ta không thể thiền định về sự tan biến tuần tự của các thành phần, thế nhưng có thể lợi dụng tình trạng đó để tập luyện kiên nhẫn, hoặc suy tư về vô thường, luật nhân quả..., đó cũng là cách củng cố thêm sự tin tưởng nơi Đạo Pháp. Ta cũng có thể xem đó như một cơ hội để nghĩ đến các chúng sinh khác cũng đang bị đau yếu như mình để phát động lòng từ bi. Sự đau khổ của mình sẽ giúp mình nghĩ đến sự đau khổ của người khác và khởi động lòng từ tâm hy sinh nhận chịu mọi khó khăn thay cho tất cả chúng sinh.

Một thính giả: Tôi có đọc thấy trong các sách viết về phép tu tập Powa [còn viết là Phowa hay P'howa, Việt dịch là Chuyển di Thần thức] liên quan đến các lỗ dùng cho tri thức [thần thức] thoát ra khỏi thân xác, dù là tái sinh trong các điều kiện thuận lợi hay không. Một người tu tập Tantra hoặc bất cứ một người nào khác đạt được một cấp bậc tâm linh cao có thể chủ động được quá trình của cái chết và hóa giải các nghiệp tiêu cực tích lũy trên dòng tri thức hay không?

Rinpoche: Còn tùy theo trường hợp. Nếu người ấy đã đạt được sự hiểu biết tính không nhất định sẽ hóa giải được các nghiệp tiêu cực của mình vào lúc phát hiện ánh sáng trong suốt của cái chết nhờ vào sự hiểu biết tánh không. Hiểu biết tính không là điều kiện tiên quyết để thực hiện được việc đó. Tại sao lại như thế? Vào giai đoạn phát hiện của ánh sáng trong suốt, chính tâm thức cực tinh tế sẽ quán thấy được tánh không và tâm thức đó thật cường lực. Nó có thể hóa giải dễ dàng các chướng ngại tức các vết hằn của nghiệp tiêu cực.

Một thính giả: Sự kiện biết rành rọt được toàn bộ quá trình của cái chết có làm thay đổi được nghiệp hay chăng? Không cần biết đến những gì xảy ra [trong quá trình đó] có thay đổi gì không? Chỉ đơn thuần ý thức được quá trình đó trong khi chết có làm thay đổi gì hay chăng?

Rinpoche: Trong khi các giai đoạn của cái chết diễn tiến, nếu chỉ biết tức chỉ đủ khả năng nhận biết sự diễn tiến của các giai đoạn sẽ chẳng giúp ích được gì cả. Nhận biết được các giai đoạn phải được đi kèm với sự suy tư và thiền định. Cần nhất là trong khi các giai đoạn của quá trình của cái chết diễn tiến phải thiền định về tính không và tâm thức giác ngộ. Khi các cảm nhận thô thiển còn tồn tại nên phát lộ một tâm thức đạo hạnh (chẳng hạn như thiền định về tính không, tình thương, lòng từ bi). Các cảm nhận đạo hạnh dù sẽ tan biến sau đó thế nhưng chúng sẽ tạo được ảnh hưởng tốt và tích cực đối với các cảm nhận tinh tế phát hiện tiếp theo sau.

Đức Dagpo Rinpoche

Việt dịch: Hoang Phong

Nguồn: Chết – Thể Dạng Trung Gian – Tái Sinh

Comments are closed.