Hóa thân của Đức Dalai Lama

Danh từ Hoá thân được dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật sự từ Hóa thân chỉ dùng cho những vị Bồ tát còn muốn tái sanh trở lại. Nhiều sách vở đôi khi còn dịch chữ Hóa thân qua từ “Reincarnation”. Từ “Reincarnation” chỉ sự đầu thai lại của tất cả những chúng sanh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở lại theo ý muốn, vì người đầu thai này thật sự đã thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được rất rõ ràng về kiếp trước của mình và biết rằng mình tái sanh trở lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sanh.

Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993), thì từ năm 1419 Tây Tạng đã có truyền thống về sự Hóa thân khi Đại sư Tsong Khapa qua đời. Vị này đã chỉ định Gedun Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã nguyện rằng sau khi chết, sẽ tái sanh trở lại để cứu độ chúng sanh và hoàn tất những gì mình chưa làm xong, cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng, lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.

Theo Đại sư Gedun Truppa thì khi hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hàng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được hai năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sanh của Đại sư.

Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận thủ đô, có một bé trai mới hai tuổi, nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy đứa bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé, rồi hỏi như sau:

- Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?

Cậu bé nhìn tất cả các thứ, rồi lựa những di vật của Đại sư Gedun Truppa để riêng ra một bên và nói:

- Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.

Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.

Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa thân của Đại sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé được huấn luyện rất kỹ về giáo lý, quy luật và mọi thứ dành cho một vị sư trưởng sau này. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình, nên đã nói một câu như sau:

- Thế các người không biết ta chính là Đại sư Gedun Truppa hay sao?

Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút, khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bị bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại là mình sẽ tái sanh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới, để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào.

Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được ở một ngôi làng rất xa thủ đô có một cậu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng, luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu được về đến tu viện chính để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé này đã báo cho gia đình biết là: "Ngày mai sẽ có khách quí đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách".

Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện. Cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu viện cùng những việc mà lúc sanh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật của Sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng. Cháu bé đã lấy ra hai vật đúng là của vị Sư trưởng và còn chỉ vào một vật thứ ba mà bảo rằng:

- Vật này ta thường dùng hàng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.

Riêng bài kệ, cháu đọc thông suốt và còn bảo rằng: "Bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"

Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại sư tài ba lỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sanh và học hỏi, lần tái sanh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự hóa thân, các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại Hãn và cũng từ đó, tướng Mông Cổ này đã phong Đại sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.

Năm 1588, Đại sư Sonaw Gyatso qua đời, lần này vị Đại sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sanh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại sư đã để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.

Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai năm tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Đứa bé này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso. Tưởng nên biết rằng bé trai này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ. Về sau, bé trai này trở thành vị Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.

Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ trước để tìm ra người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.

Nhưng rồi tai họa lại xảy đến cho toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga và Trung Quốc, ngoài ra còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy giờ, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách để chống đỡ đất nước, nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang dòm ngó. Ngài biết trước thế nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa, nhưng ngài lại không thể sống thêm để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Quốc tung quân xâm lược, đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ tôn giáo.

Tục truyền rằng, khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương thức cổ truyền. Nhưng sau đó, các vị tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài sẽ lại tái sanh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhằm hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm, họ nghe đồn về một cháu trai độ ba tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất, tọa lạc bên một cây cổ thụ xum xuê. Khi phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến và ngồi lên đùi một vị Trưởng lão hòa thượng, vì vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp. Vị sư hỏi:

- Tên người là gì?

Cháu bé đáp:

- Tôi là Lhamo.

Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:

- Đây là ai?

Cháu bé đáp:

- Đây là Lạt Ma Scra.

Phái đoàn đã biết được phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau, họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng tay gạt những xâu chuỗi không đúng của đức Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó, phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dù đường sá khó khăn, lại thêm quân đội Trung Cộng gây cản trở, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện Potala. Đến lúc gần năm tuổi, bé Lhamo chính thức được tôn vinh là đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị Phật sống này phải được huấn luyện kỹ càng về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải qua nhiều cuộc thử thách cam go về giờ giấc, học hành và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật giáo... trong khi đó tình hình chính trị không yên, Trung Quốc tìm đủ cách để gây hấn. Vì thế năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới đến lánh nạn ở Ấn Độ.

Comments are closed.