Tận tụy với Thầy trong ý nghĩ và tận tụy với Thầy trong hành vi

I. Tận tụy với Thầy trong ý nghĩ: căn bản là luyện niềm tin và tri ân và kính trọng

1. Căn bản là luyện niềm tin

a. Quán Thầy là Phật: từ giữa ngực của Vô Thượng Sư Năng Nhơn hóa hiện các bậc Thầy bạn đắc pháp trực tiếp, từ Thầy nghe một câu kệ v.v... không thiếu vị nào, quý Ngài trụ ở trước hư không, xem các thiện tri thức này là Phật thật sự. Trong hai giai đoạn (Taknyi) Hevajra/Mulatamtraraja có dạy:

“Về thời gian sau này, chính ta hiện sắc thân Quỷ Phạm Sư”

(Gu) Bảo Trướng, Vajra Panjara Tantra dạy:

“Bất kỳ Kim Cang Tát Đỏa nào

Có được thân tướng Quỷ Phạm Sư

Nhằm lợi ích chúng sinh

Hiện thân tướng phàm phu”.

Mặt khác:

“Năm trăm năm cuối cùng

Chính ta hiện thân Quỷ Phạm Sư

Các con nghĩ chính ta từ ý hóa hiện

Lúc ấy nên phát tâm kính trọng Thầy”

Năm trăm năm sau cùng trong tương lai, Đấng Chiến Thắng Kim Cang Trì xuất hiện ở đời, khi đó giáo pháp suy giảm, ngũ trược tràn lan, đồ chúng thiếu phước duyên, Phật dạy rằng:

“Nếu ta thị hiện ứng thân thù thắng chúng sinh không thể nào gặp được, tuy nhiên tâm các con không nên tuyệt vọng. Vào lúc đó, ta sẽ thị hiện sắc thân phàm phu hợp với phước phần của chúng sinh mà làm lợi tha cứu độ. Bậc Thầy nào con thấy hãy xem vị ấy chính là ta Kim Cang Trì, nên sinh lòng cung kính”.

Chúng ta không có phước duyên chiêm ngưỡng Phật thật nên Phật Kim Cang Trì muốn dẫn dắt chúng ta, nên Ngài hiện tướng thiện tri thức phàm phu. Dưới hình tướng phàm phu, các Ngài thực hành mọi phương tiện, bảo trì giáo pháp không bị hoại diệt. Hóa hiện bậc Thầy gần gũi với bạn chỉ cho đọc, đánh vần, ráp chữ, làm thầy trò độ cho bạn xuất gia, truyền giới, truyền quán đảnh các Tục Bộ. Hóa hiện minh sư giảng dạy đạo lộ và kinh điển đại luận, chỉ dạy thực hành toàn diện đạo lộ. Thí dụ như Thánh Quán Thế Âm vì tế độ dân xứ Tuyết (Tây Tạng) hiện thân tướng con người, thị hiện làm Quốc Vương, truyền mười sáu giới cho hàng tại gia, hiện thân dịch giả chuyển dịch kinh điển, thị hiện nhiều thân tướng hoằng truyền giáo lý Phật Đà tôn quí. Đức Thế Tôn thị hiện bậc Thầy được trích như sau:

“Phật ở trên núi cao phương nam lúc sắp nhập Niết Bàn, hội chúng đông đủ nghe giáo pháp. Khi ấy, Lợi Kiến Bồ Tát khởi nghi rằng: sau khi Phật nhập diệt, Ngài sẽ không giảng dạy giáo pháp nữa. Phật chứng biết và dạy Lợi Kiến Bồ Tát:

Này, Lợi Kiến Bồ Tát về đời sau này

Ta thị hiện hình tướng bậc Thầy

Dưới sắc thân Quỷ Phạm Sư”

Nghi rằng: Phật đã giải thoát bốn dòng sinh, già, bệnh, chết còn thiện tri thức, Thầy của bạn thì chưa giải thoát thì làm sao hiện thân làm lợi ích chúng sinh?

“Này, Lợi Kiến Bồ tát

Vì thuần thục các chúng sinh

Ta thị hiện có sinh, già, bệnh, chết”.

Như lời Phật dạy: Đức Thế Tôn vì lợi ích cho chúng sinh nên thị hiện dưới hình tướng thiện tri thức. Làm sao chứng minh được thiện tri thức phàm phu này không phải là Phật thị hiện? Các bậc Thầy dẫn dạy cho bạn xuất gia làm công hạnh của Phật. Một kẻ ngu si hạ liệt như con làm gì có duyên trực tiếp diện kiến được tất cả thiện đức siêu việt bí mật của Phật. Suy lường cách làm lợi ích cho con nên các Ngài thị hiện học rộng nghe nhiều, tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật, ít tham đắm vật chất, dẫn dắt chúng đệ tử v.v... thì không còn nghi ngờ gì Đức Thế Tôn hóa hiện thân phàm phu phù hợp với căn cơ trình độ của con mà cứu độ cho. Khẩn cầu Thầy Chư Thần gia hộ cho con và tất cả chúng sinh trực tiếp gặp được các bậc Thầy chính là hóa thân của Năng Nhơn Kim Cang Trì. Do năng lực khẩn cầu, cam lồ từ thân của Thầy, Chư Thần trên đỉnh đầu con và tất cả chúng sinh tịnh hóa tội chướng chung, đặc biệt tịnh hóa tội chướng ngăn cản gặp được thầy là Phật. Tưởng rằng: thọ mạng, phước đức, niềm tin kiên cố thấy Thầy thật sự là Kim Cang Trì Năng Nhơn sinh trong dòng tâm thức của con và chúng sinh.

b. Làm thế nào loại bỏ phân biệt sai lầm

Lại nữa, Phật là vị đã trừ tất cả lỗi lầm, đầy đủ mọi thiện đức. Các bậc Thầy của con thì nghiêm khắc, nhiều tham đắm vật chất của cải, hiểu biết nông cạn, ba độc đầy dẫy v.v… có nhiều lý do sai lầm cho thấy Thầy không phải là Phật. Điều đó chỉ do hiểu biết sai lầm, ấn tượng ảo giác chủ quan, ví như trước đây Thiện Tinh Tỳ Kheo và Đề Bà Đạt Đa v.v… tuy gặp được Đức Thế Tôn nhưng do tạp nhiễm khiến cho thấy biết sai lầm về Phật nên tạo nhiều trọng tội. Trong Kinh có dạy:

“Suy biết các Ngài thị hiện vốn không lỗi lầm, nhưng do thấy biết ảo giác sai lệch, làm lu mờ tâm trí, con thấy các bậc Thầy có lỗi lầm”.

Các bậc Thầy của con tùy tâm chúng sinh thị hiện hình tướng phàm phu làm gì có sự sai lầm. Hơn nữa, như Ngài Vô Trước chứng được địa vị thứ ba mà còn thấy Đức Di Lặc dưới dạng con chó cái. Metripe thấy du già tự tại Shawaripa là kẻ giết heo v.v… Naropa thấy Tilopa bắt cá sống nướng, Sadi Krishnacharya (Tsempupa) thấy Kim Cang Hợi Mẫu là người bị bệnh phong hủi. Phật Trí thấy Văn Thù Thiện Hữu (Jamphel Tshenyi) là một cụ già nửa tăng nửa tục cày ruộng v.v… các Ngài đều đạt đến quả vị cao, tuy nhiên do cách nhìn điên đảo thấy sai lầm. Con bị ba độc trói buộc tâm nên thấy biết sai lầm. Do bệnh mật (vàng da) làm nhân nên thấy ốc pháp màu trắng thành màu vàng, mắt bệnh thấy núi tuyết trắng thành núi tuyết xanh, ngồi trên thuyền thấy rừng cây di chuyển, cho nên thấy vô số sai lầm. Con từ vô thủy liên tục bị phiền não điều động làm nhiễm ô dòng tâm thức, đương nhiên thấy biết không lỗi thành có lỗi. Thấy biết sai lầm như người bị bệnh cườm mắt không có tóc xòa xuống mặt mà thấy có là do chúng ta bị nghiệp phiền não chướng sâu dày che mờ cái thấy biết đúng như thật. Thật kỳ diệu thay! Thầy hiện thân làm người để cho con có cơ hội được nghe pháp Thầy giảng dạy. Giả sử Thầy hiện thân dưới hình tướng con chó, con lừa thì con biết làm gì hơn. Trong Kinh nói một số chúng sinh ở dưới địa ngục và Cận Biên Vô Gián địa ngục đang chịu thống khổ, Chư Phật do lòng thương yêu không thể cam lòng nên Chư Phật đến địa ngục. Nhưng do nghiệp ác chướng ngại chúng sinh ở địa ngục không thấy được tướng hảo của Phật, chỉ thấy Phật thành kẻ ngục tốt (người cai ngục) lòng sinh đau khổ.

Do sức mạnh nghiệp chướng sâu dày nhất định thấy Thầy là con lừa. Kết luận thấy tốt xấu nơi Thầy làm sao đúng chính xác như thật. Tùy dòng tâm thức của đệ tử bị chướng ngại hoặc không chướng ngại, cộng với tích lũy phước đức mà gặp được Thầy tốt hoặc xấu. Bây giờ hiện thấy Thầy dưới hình tướng phàm phu, khi chứng được thiền định pháp lưu ở Đại Thừa Tư Lương Đạo thì sẽ diện kiến được ứng thân. Nếu đắc địa thứ nhất sẽ diện kiến được báo thân.

Nếu cái thấy lỗi lầm của Thầy là thật thì phải chấp nhận tất cả cái thấy của mình không sai lầm. Nhưng đối với một số cái thấy khác sai lầm làm sao thấy biết lỗi của Thầy không thể không sai? Nếu nói tất cả bạn thấy biết không thể nhầm lẫn thì làm sao có một số kẻ giả dối giúp đỡ thân gần sau đó dối gạt bạn. Những lời chỉ trích lỗi của bạn làm bạn khó chịu, những điều ấy là sai lầm hay sao? Vậy sự thật nằm ở chỗ nào? Như mắt thấy rõ ràng.

Trong kinh Phụ Tử Đoàn Viên có dạy:

“Khoác áo của Phạm Thiên Đế Thích

Một số khoác áo ma quỷ

Là vì lợi ích của chúng sinh

Người thế gian không thể hiểu

Thị hiện hành xử như thay phục sức của nữ nhân

Cũng có lúc sinh ở loài súc sinh,

Vô dục thị hiện tham dục Vô uý hiện thấy sợ hãi Vô si thị hiện có si mê Không nói bày hiện nói năng Không què quặt hiện què quặt Hóa hiện mọi tướng trạng Là vì điều phục chúng sinh”.

Do vậy, các Thầy chỉ hiện tướng phàm phu trong cái nhìn bọt bong bóng nước làm lợi lạc chúng sinh nên Ngài chính là hóa thân của Phật. Xin Thầy, Chư Thần gia hộ cho tâm con và tất cả chúng sinh dẫu là một sát na không khởi tâm phân biệt sai lầm về Thầy, dễ dàng phát niềm tin lớn mạnh thấy được thiện đức công hạnh của Thầy. Nhờ khẩn cầu trên đỉnh đầu tịnh hóa ác tập khí của tâm phân biệt sai lầm, thấy được thiện đức công hạnh của Thầy sinh khởi trong dòng tâm thức của con và chúng sinh.

2. Tri ân và kính trọng

Thiền quán ở trước các bậc Thầy là thiện tri thức có ân đức vô vàn đối với con, thân người hạ mãn này cũng không phải không nguyên nhân mà có, nhờ nương tựa các nhân như giữ giới v.v... mà có được. Giữ giới nếu không có Thầy truyền giới làm sao con biết được cách thọ trì giới luật. Rõ ràng xưa kia nhờ bậc Thầy thiện tri thức dạy và truyền cho con cách thọ trì giới luật, con mới biết giữ giới. Nhờ ân đức đó ngày nay được sinh làm người. Tuy có được thân người nhưng thời thơ ấu khờ dại đâu biết gì ngoài việc bú sữa mẹ, khóc lóc mè nheo, một mẫu tự chữ cái còn chưa biết, nói chi hiểu được nghĩa lý kinh luận. Nhờ thầy dạy đọc ka, kha (A,B,C...) đánh vần, tuy biết chữ nhưng nếu không xuất gia thì con phải làm lụng vất vả nuôi vợ con, tạo nhiều tội lỗi như sát sinh v.v... vây quanh bao chuyện thế tục như chăn nuôi làm sao biết cách làm lành lánh dữ? Cũng nhờ ân các bậc thiện tri thức truyền dạy kinh nghiệm cho, con tìm thấy biết chút ít phương pháp quán sát tu hành xả bỏ. Nếu chuyên tâm hướng ngoại không sống với lời Thầy giảng dạy sẽ không có kết quả tốt lành, khi lâm chung phải ôm lòng hối hận. May thay! Nhờ ân đức Thầy chuyển tâm con chuyên tu trì, không khoe khoang mình là kẻ tu hành, không bị chấp trước vi tế, lạc đường cho là tu đạo tối thượng uổng phí công sức một cách vô nghĩa. Ân Thầy hóa thân của Kim Cang Trì cho con có cơ hội huân tập học pháp tránh xa sai lầm về đạo lộ sâu rộng điểm quan trọng. Từ Đấng Năng Nhơn Vô Tỷ cho đến Ngài Long Thọ, Vô Trước, Tôn giả Atisha, Dontoenpa, Tôn giả Tsongkhapa phụ tử v.v... nhiều bậc hiền trí đã xuất hiện con không được hội ngộ. Hiện nay, Chư Phật ở mười phương giới số lượng như số bụi của sông Hằng thị hiện mà con chưa có phước phần hội ngộ và nghe lời dạy chứa đựng tinh túy giáo ngôn Bồ Đề Đạo Thứ Đệ của các Ngài, để con có thể tu hành theo sẽ đạt được hạnh phúc tạm thời ở cõi lành, cứu cánh giải thoát và Nhất Thiết Chủng Trí, thành tựu mọi khát vọng.

Ân đức Thầy dưới hình tướng phàm phu này có đại ân hơn tất cả Chư Phật trong ba đời. Các bậc Thầy tiền bối Kadam dạy rằng:

“Báo thân cần tuyên dương. Bây giờ, đang lúc khốn cùng các bậc Thầy hiện thân phàm phu này xuất hiện, các Ngài chính là đại ân nhân”.

Các Thầy không những ban cho con giáo pháp mà còn dạy cho cách ăn, mặc, đi, đứng, khuyên dạy nuôi dưỡng thân tâm con như người cha hiền tốt bụng, ngăn trừ mọi nghịch duyên cho con, đem lại mọi thuận duyên, giảm bớt cao ngạo cho con, an ủi, khen ngợi, nâng đỡ khi con nản lòng, dần dần đưa con vào việc tu hành tất cả giáo pháp. Ban đầu, khi còn ở thế tục con như con lừa ngu dốt. So với bây giờ con đã biết tu hành và biết loại bỏ bất thiện là nhờ ân thầy dẫn con từ vị trí một con lừa khờ khạo vào địa vị con người.

Trong Kinh có dạy: “Xưa kia, Đức Thế Tôn lúc đang tu đạo hữu học, Ngài đã thắp 1000 ngọn đèn trên thân, đóng 1000 đinh nhọn vào thân, lấy da làm giấy, lấy máu làm mực, lấy xương làm viết để được nghe một câu kệ giáo pháp”. Tôn giả Atisha, Dontoenpa, Naropa, Marpa, Milarepa v.v... đã hành biết bao khổ hạnh để được học pháp. Con không phải chịu cực nhọc mà vẫn được các thiện tri thức bi mẫn truyền quán đảnh, giảng dạy, khẩu truyền như cha truyền tài sản cho con, tâm con vui mừng được ban cho ân đức vô vàn.

Tóm lại: xem các thân quyến trong gia đình và các bạn cùng lứa tuổi mình, phần lớn họ phải trải nghiệm cuộc đời đau khổ, tội lỗi, tiếng tai, không có cơ hội làm lành. Con được xuất gia trong giáo pháp Phật, thân mặc ba pháp y, thảo luận nghĩa lý kinh điển, tâm tu hành đạo viên mãn, được sống nơi hang động cô tịch như lối hành xử của các bậc tiền nhân. Tất cả hạnh phúc này là ân đức Thầy ban cho. Như ở thế gian có ai giúp đỡ lúc bạn đang nguy khốn cho một ít thức ăn, đồ mặc được xem trọng như đại ân. Đối với ân đức truyền dạy tinh hoa giáo ngôn, ban cho vô thượng an lạc miên viễn, trừ diệt tất cả khổ đau thô tế của luân hồi. Dù con đem tất cả thân mạng, thọ dụng dâng cúng cho Thầy qua thời gian lâu dài cũng không thể đáp đền một phần ân đức của Thầy. Thỉnh cầu gia trì cho dòng tâm của con và tất cả chúng sinh nhớ ân kính trọng tột bậc. Nhờ năng lực thỉnh cầu Thượng Sư, Chư Thần trên đỉnh đầu x1 các tập khí suy nghĩ không kính trọng thiện tri thức x2 nhớ niệm ân đức Tôn Sư.

II. Tận tụy với Thầy trong hành vi

Cúng dường tài vật, cung kính y giáo phụng hành tất cả điều thiện ở thời tu hành chính là thời gian xả thiền nghỉ giải lao theo các bước tưởng như sau: con xin dâng cúng tất cả không tiếc bất kỳ tài vật nào lên chư thiện tri thức, Phật bằng cả sự cung kính và lời hoan hỷ, đặc biệt thọ trì nghiêm tịnh ba luật nghi, quan sát thiền định hợp pháp tinh túy đạo lộ viên mãn, dâng cúng sự hành trì y giáo phụng hành làm Thầy hài lòng. Thỉnh cầu Thầy gia hộ cho con có năng lực thực hiện điều này. Quán tưởng do thỉnh cầu trên đỉnh đầu x1 chướng ngại tận tụy với Thầy trong hành vi x2 chứng ngộ năng lực y giáo phụng hành x3 .

C. Kết thúc

Quán tưởng trước mặt các bậc Thầy đắc pháp trực tiếp hoà nhập vào Đấng Năng Nhơn ở trên đỉnh đầu bạn. “Con xinh đảnh lễ, qui y, cúng dường Đức Thích Ca Mâu Ni Phật” tụng ba hoặc bảy lần với niềm kính tin mãnh liệt khẩn cầu Thầy hòa nhập vào đỉnh đầu bạn và bạn hóa thành thân của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Tự thân bạn Đấng Năng Nhơn bản chất ánh sáng phóng chiếu hào quang vào tất cả chúng sinh ở xung quanh, đưa tất cả chúng sinh đạt quả vị Đấng Năng Nhơn Vương. Bạn và tất cả chúng sinh thành Đấng Năng Nhơn. Giữa ngực là đĩa mặt trăng, trên đó chủng tự A màu trắng có biểu tượng Hum màu vàng, xung quanh là tâm chú Om muni muni maha muni ye soha xoay quanh, hãy chú tâm vào niệm tụng. Nhờ công đức này mong cho con sớm thành Phật, Vô Thượng Sư đưa chúng sinh đến quả vị Phật không còn sót một chúng sinh nào và “Nhờ công đức này cho đến ba đời”… Khi tụng thiền quán đạo lộ viên mãn tiêu biểu năng lực cộng thông tất cả thiện căn đã tích luỹ, sẽ tích luỹ trong ba đời gom thành một, hồi hướng mong đạt địa vị Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh nhiều như hư không giới. Duy nguyện mọi kiếp về sau tạm thời không bị sinh vào nơi bát nạn, tất cả đều được thân tốt lành hạ mãn. Mong con có năng lực tận tuỵ với bậc Thầy trong ý nghĩ và hành vi, được bậc minh sư hướng dẫn, không xa rời Thầy. Cầu mong được xuất gia trong giáo pháp Phật Đà, thọ trì giới luật có khả năng bảo hộ giới như giữ tròng mắt. Mong con luôn khát khao văn, tư muôn vàn kinh luận hiển mật đến nơi đến chốn. Nguyện cho con có duyên lành chuyên nhất tu hành chân chính tinh túy đạo viên mãn để điều phục tâm mình qua việc hiểu nghĩa lý. Nguyện cho mọi Phật sự gặp nhiều thắng duyên, tiêu trừ nội ngoại chướng, vạn sự thành tựu như ý nguyện.

“Gia trì lực Phật, Bồ Tát thật kỳ diệu

Sự thật duyên khởi bất hư dối Do năng lực thanh tịnh ý lạc của con Cầu mong sở nguyện thanh tịnh sớm thành tựu”.

Lúc đọc tụng không nên đọc tụng suông. Điều quan trọng tâm tư khát khao mãnh liệt sở nguyện trước mắt và dài lâu rồi hồi hướng tuyên tụng năng lực sự thật. Phần cuối quán tưởng theo dự định như trước kiểm soát hành vi của bạn có trái nghịch với lời nguyện hay chăng. Nếu hành vi hợp với nguyện ước sinh tâm hoan hỷ, nếu không hợp thì sinh tâm hối hận thề từ ngày nay về sau không tái phạm.

Nên làm gì vào thời gian giải lao

Không nên cho phép tâm mình tùy tiện buông lung. Nên nhớ lại đề mục thiền quán của thời tu chính thức và xem đọc kinh luận dạy về cách tận tụy với bậc Thầy. Tinh tấn bằng nhiều pháp môn như sám hối tịnh trừ tội chướng, sống trong phạm vi giới luật đã thọ, dùng chánh niệm tỉnh giác phòng hộ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ăn lượng thức ăn vừa đủ (tiết chế ăn uống). Khi ngủ nên thùy miên du già (thiền tập trong giấc ngủ). Thiền quán lúc tắm rửa và ăn uống. Rất quan trọng áp dụng những điều này đã dạy trong Thứ Tự Bồ Đề Đạo tiểu luận (LamRim Chungngu), đại luận cần nên biết.

Amdo Zhamar Gendun Tenzin Gyatso

Việt dịch: Nhật Hạnh

Nguyên Tác: Bồ Đề Lạc Đạo Nhật quang trang nghiêm

Comments are closed.